Luận văn Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa

Giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường và gia đình là hai cơ sở trực tiếp giáo dục các em. Gia đình luôn là môi trường sống, môi trường giáo dục lâu dài, thường xuyên và dựa trên cơ sở tình thương yêu. Như vậy gia đình là môi trường giáo dục có nhiều thuận lợi và ưu thế trong việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ, do đó nhà trường cần phải chủ động phối hợp với gia đình để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Sự phối hợp giữa ba môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội là một trong những nguyên lý giáo dục của nước ta. 1.2. Học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi thiếu niên bắt đầu dậy thì, có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, tự ý thức chưa cao, dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh. Học sinh ở vùng nông thôn, nhất là học sinh nam thường có nhiều trò chơi hấp dẫn của miền quê, hơn nữa các em hầu như chỉ học một buổi / ngày, đa số không đi học thêm. Như vậy chỉ có khoảng 1/4 thời gian trong ngày các em ở trường, còn gần 3/4 thời gian các em ở nhà hoặc ở ngoài xã hội, ngoài ra trong suốt gần 3 tháng hè các em không đến trường. Với môi trường thiên nhiên phù hợp lứa tuổi hiếu động, ham chơi của thiếu niên và thời gian ở trường không nhiều nên học sinh trung học cơ sở dễ sao lãng nhiệm vụ học tập và rèn luyện của mình nếu không được các bậc phụ huynh quản lý, hướng dẫn

pdf110 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2573 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường và gia đình là hai cơ sở trực tiếp giáo dục các em. Gia đình luôn là môi trường sống, môi trường giáo dục lâu dài, thường xuyên và dựa trên cơ sở tình thương yêu. Như vậy gia đình là môi trường giáo dục có nhiều thuận lợi và ưu thế trong việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ, do đó nhà trường cần phải chủ động phối hợp với gia đình để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Sự phối hợp giữa ba môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội là một trong những nguyên lý giáo dục của nước ta. 1.2. Học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi thiếu niên bắt đầu dậy thì, có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, tự ý thức chưa cao, dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh. Học sinh ở vùng nông thôn, nhất là học sinh nam thường có nhiều trò chơi hấp dẫn của miền quê, hơn nữa các em hầu như chỉ học một buổi / ngày, đa số không đi học thêm. Như vậy chỉ có khoảng 1/4 thời gian trong ngày các em ở trường, còn gần 3/4 thời gian các em ở nhà hoặc ở ngoài xã hội, ngoài ra trong suốt gần 3 tháng hè các em không đến trường. Với môi trường thiên nhiên phù hợp lứa tuổi hiếu động, ham chơi của thiếu niên và thời gian ở trường không nhiều nên học sinh trung học cơ sở dễ sao lãng nhiệm vụ học tập và rèn luyện của mình nếu không được các bậc phụ huynh quản lý, hướng dẫn. 1.3. Đến nay việc đổi mới chương trình phổ thông đã thực hiện ở toàn cấp tiểu học và trung học cơ sở. Phương pháp học tập theo chương trình mới yêu cầu cao việc tự giác học tập ở nhà của học sinh, các em không phải thụ động tiếp thu kiến thức ở trường mà cần chủ động tìm tòi kiến thức từ nhiều nguồn 2 thông tin theo sự hướng dẫn của thầy cô và cha mẹ. Hơn nữa quá trình học tập ở nhà là tiếp nối và hoàn thiện quá trình học tập ở trường, làm chuyển hoá kiến thức lĩnh hội trở thành năng lực bản thân. Do đó nhà trường cần phải chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất, nhằm thực hiện tốt mục tiêu và nguyên lý giáo dục. 1.4. Tính hệ thống, tính liên tục và tính thống nhất các tác động giáo dục và các lực lượng giáo dục là một nguyên tắc giáo dục rất quan trọng vì đặc điểm của quá trình giáo dục là lâu dài, phức tạp và biện chứng. Do đó sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với cha mẹ học sinh là điều hết sức cần thiết, sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp của hai lực lượng giáo dục: thầy cô và cha mẹ, đồng thời tạo được môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân cách của học sinh ở cả nhà trường và gia đình. 1.5. Ở thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có 3 xã thuộc vùng nông thôn. Trong nhiều năm qua, nhận thức về giáo dục của một bộ phận nhân dân trong các xã chưa cao, cộng thêm điều kiện kinh tế còn khó khăn cho nên việc đầu tư và quan tâm đến việc học tập của con em đối với nhiều bậc phụ huynh còn hạn chế. Trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ ở nhiều gia đình chưa được coi trọng, một số cha mẹ còn khoán trắng việc dạy dỗ con cái cho nhà trường, việc phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh chưa đạt hiệu quả giáo dục cao. Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa” là cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh ở các trường vùng nông thôn trong thị xã và trong tỉnh. 3 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng việc quản lý công tác phối hợp của nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn của thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong việc giáo dục học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng việc quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 3.2. Khách thể nghiên cứu - Công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường THCS vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. - Cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ học sinh ở các trường THCS thuộc vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1 . Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài. 4.2. Đánh giá thực trạng việc quản lý công tác phối hợp của nhà trường với cha mẹ học sinh và nguyên nhân yếu kém trong công tác này ở các trường THCS vùng nông thôn thị xã Bà Rịa. 4.3. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh trong việc giáo dục học sinh. 4 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu có các biện pháp quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh ở trường và ở gia đình một cách thích hợp, đồng thời tạo lập được sự phối hợp tốt và có sự thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường với cha mẹ học sinh thì sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập và rèn luyện đạo đức của các em. 6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu việc quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường THCS vùng nông thôn của thị xã Bà Rịa gồm trường THCS Nguyễn Thanh Đằng, Dương Văn Mạnh, Long Toàn, Phước Nguyên và trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nhằm thu thập và phân tích các tài liệu về chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước và những vấn đề lý luận có liên quan đến sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình học sinh. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: - Phương pháp điều tra bằng phiếu: lập phiếu hỏi các giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh nhằm đánh giá thực trạng nhận thức và các hoạt động phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình. - Phương pháp phỏng vấn: trao đổi với ban giám hiệu, giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh để khẳng định kết quả điều tra bằng phiếu. - Phương pháp chuyên gia: hỏi ý kiến một số cán bộ quản lý giáo dục. 7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê: dùng toán thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch chuẩn về mức độ thực hiện một số công việc phối hợp giữa các giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh. 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Trách nhiệm của nhà trường trong việc tổ chức phối hợp với gia đình để giáo dục học sinh là vấn đề từ lâu đã được xã hội và các nhà giáo dục rất coi trọng. Trong nền giáo dục cận đại, J.A.Komenxki (1592-1670) là người đầu tiên nêu ra một hệ thống lý luận chặt chẽ về tầm quan trọng của mối quan hệ thống nhất giữa gia đình và nhà trường đối với kết quả giáo dục trẻ. Ông khẳng định lòng ham học của trẻ không thể thiếu vắng sự kích thích từ phiá bố mẹ và thầy cô :..“Các bậc cha mẹ, giáo viên nhà trường, bản thân môn học, phương pháp dạy học phải thống nhất làm thức tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh” .Nhiều nhà giáo dục lỗi lạc của Liên Xô đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự phối hợp, hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong việc thực hiện mục đích giáo dục những người công dân chân chính trong tương lai đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.A.Xukhomlinxki (1918-1970) đã khẳng định nêú gia đình và nhà trường không có sự hợp tác để thống nhất mục đích, nội dung giáo dục thì sẽ dẫn đến tình trạng “gia đình một đường, nhà trường một nẻo”. Vào đầu thế kỷ 21 này, một số nước phương Tây đã chú ý đề cao hơn vai trò của cha mẹ trong việc kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ. Ông Alan Johnson, bộ trưởng Bộ Giáo dục Anh, trong bài phát biểu gần đây đã kêu gọi cha mẹ không nên phó thác việc chăm sóc, giáo dục con em mình cho nhà trường. Ngược lại, ông khẳng định vai trò của các bậc phụ huynh rất quan trọng, thậm chí sẽ mang lại một “sự khác biệt lớn” so với những kết quả mà trẻ đạt được từ trường học. (theo báo Tuổi Trẻ ngày 13/11/2006) Trong lịch sử giáo dục ở nước ta, từ lâu giữa nhà trường và gia đình đã có sự hợp tác chặt chẽ trong việc giáo dục trẻ, câu nói “Muốn sang thì bắc cầu 6 Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy Thầy” đã khái quát ý nghĩa lớn lao về mối quan hệ này. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà giáo dục lớn của nước ta, Bác đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng về trách nhiệm của nhà trường phải tổ chức phối hợp với gia đình: “Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”[19, tr.10] Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu, tổng hợp quan điểm lý luận và thực tiễn về vai trò, nhiệm vụ của gia đình và sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ như “Giáo dục gia đình” (Giáo trình đào tạo giáo viên THCS, NXB Giáo Dục), “ Xã hội hoá công tác giáo dục” (Phạm Minh Hạc tổng chủ biên), “Giáo dục học- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Hà Thế Ngữ), “Thực hành tổ chức hoạt động giáo dục” (Hà Nhật Thăng), “Suy nghĩ về trách nhiệm của gia đình đối với việc giáo dục thiếu niên nhi đồng” (Nguyễn Đức Minh), “Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em” (Võ Thị Cúc) Một số tác giả cũng đã chọn đề tài nghiên cứu về tác động phối hợp của gia đình để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh trong luận án, luận văn của mình như: “Những biện pháp cải thiện tác động của gia đình đến việc học tập của học sinh lớp 1,2 trường tiểu học” (Luận án TS của Vũ Thị Sơn), “Các biện pháp tác động của cha mẹ đến việc học tập của học sinh lớp 5 ở TP.HCM” (Luận văn Th.S của Võ Thị Bích Hạnh), “Một số biện pháp cơ bản tạo quan hệ gắn bó giữa cha mẹ và con cái” (Luận văn Th.S của Nguyễn Thị Bích Hồng), “Nghiên cứu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc quản lý hoạt động học tập của học sinh các trường THPT tỉnh BRVT” (Luận văn Th.S của Nguyễn Văn Trung). 7 Các công trình nghiên cứu đã khẳng định gia đình có tính quyết định trong việc giáo dục thế hệ trẻ và sự phối hợp giữa giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình là không thể thiếu trong quá trình giáo dục trẻ. Bởi lẽ gia đình có vị trí và vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Giáo dục gia đình có tính xúc cảm hơn so với bất cứ môi trường giáo dục nào khác, vì nó dựa trên tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái và tình cảm quyến luyến tin cậy của con cái đối với cha mẹ, do đó giáo dục gia đình có khả năng lớn trong xây dựng tình cảm, niềm tin, tính cách con người. Giáo dục gia đình còn mang tính ổn định, lâu bền. Những phẩm chất về nhân cách của cha mẹ và các thành viên trong gia đình tác động trực tiếp, thường xuyên và có hiệu quả đến trẻ em. Sự gắn bó của các quan hệ gia đình tạo nên không khí tâm lý gia đình thường có ảnh hưởng quyết định đối với những phản ứng của trẻ em. Do đó những ảnh hưởng của gia đình thời thơ ấu thường để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn đứa trẻ và những đặc điểm của gia đình có ảnh hưởng nhiều nhất và mạnh nhất đến các hoạt động của trẻ em. Bên cạnh những thuận lợi, giáo dục gia đình còn có những mặt không thuận lợi trong việc giáo dục trẻ. Tình yêu thương sâu sắc, rộng lớn của cha mẹ đối với con cái nếu không có yêu cầu cao về giáo dục, không có tính nguyên tắc sư phạm sẽ có thể là nguyên nhân gây ra cho con cái thói hư, tật xấu. Những cha mẹ có tư tưởng lạc hậu, quan niệm giáo dục lỗi thời, không có tri thức về khoa học giáo dục sẽ dẫn đến việc giáo dục gia đình mâu thuẫn với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội. Do đó nhà trường và xã hội cần phải phối hợp, phát huy những thuận lợi và khắc phục những mặt không thuận lợi của giáo dục gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Ngược lại gia đình và xã hội cũng cần phải bổ sung, cộng tác và phát huy vai trò của giáo dục nhà trường vì mục tiêu chung là làm cho trẻ “thành người” và “làm người”. 8 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài Trong đề tài này có một số khái niệm cần làm sáng tỏ như sau: • Quản lý Hiện nay có nhiều định nghĩa về quản lý tùy theo cách tiếp cận đối tượng của mỗi môn khoa học và của từng tác giả. Theo tác giả Hoàng Tâm Sơn: “Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường”. Tác giả Đặng Vũ Hoạt và Nguyễn Gia Qúy cho rằng: “Quản lý là một quá trình hướng đích, quá trình có mục tiêu. Quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà nhà quản lý mong muốn”. Một định nghĩa khác theo tác giả Trần Anh Tuấn: “Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung”. Định nghĩa một cách khái quát theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà nội năm 1992: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. Mặc dù các định nghĩa về quản lý có khác nhau nhưng nhìn chung chúng đều chứa đựng nét đặc trưng của những chức năng quản lý (kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) và mang tính mục đích của chủ thể quản lý. • Sự phối hợp Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” của Nxb Giáo Dục năm 2002: Phối hợp là cùng chung góp, cùng hành động ăn khớp để hỗ trợ cho nhau. Sự phối hợp giữa nhà trường và cha mẹ học sinh được hiểu là các thầy cô trong trường và cha mẹ học sinh có sự hợp tác, cùng thống nhất hành động và hỗ trợ nhau thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh. Công tác phối hợp giữa nhà 9 trường và cha mẹ học sinh xét trong đề tài này được giới hạn là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh về học lực và hạnh kiểm. Chủ thể phối hợp là hiệu trưởng (phạm vi toàn trường), giáo viên chủ nhiệm (từng lớp) và cha mẹ học sinh (kể cả tổ chức hội cha mẹ học sinh). Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh là kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện các hoạt động nhằm thống nhất giữa nhà trường với cha mẹ học sinh về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục nhằm tạo ra môi trường giáo dục thống nhất ở nhà trường và ở gia đình để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh. Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với cha mẹ học sinh để cùng nhau thực hiện tốt nhiệm vụ này. • Trường học vùng nông thôn Các trường học vùng nông thôn ở nước ta rất đa dạng, rải ra trên một địa bàn rộng lớn với những đặc điểm tự nhiên và xã hội rất khác nhau. Trường học ở nông thôn giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, hiện chiếm khoảng gần 80% số trường trong cả nước. Các trường ở nông thôn vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, thiếu thốn các điều kiện về trang thiết bị để hoạt động và phát triển, đội ngũ thầy cô giáo chưa đồng bộ, trình độ văn hoá và hiểu biết về khoa học giáo dục của nhiều cha mẹ học sinh còn thấp, hoàn cảnh kinh tế đa số gia đình học sinh còn có khó khăn nên việc quan tâm đầu tư cho việc học tập của các em còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên công tác giáo dục ở nông thôn có được những mặt mạnh như học sinh ít bị ảnh hưởng bởi những tiêu cực của xã hội; các lực lượng xã hội có nhiều sự quan tâm phối hợp giáo dục; học sinh đa số ngoan, chăm chỉ, lao động tốt; các bậc cha mẹ luôn gần gũi với con em nên có nhiều thuận lợi trong việc giáo dục các em. Hiện nay nông thôn Việt Nam đang có nhiều biến đổi theo những biến động to lớn do quá trình đô thị hoá nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường, nên các trường học ở nông thôn 10 cũng có nhiều thay đổi và đương đầu với nhiều khó khăn. Ở các xã thuộc thị xã Bà Rịa, sự lan rộng nhanh chóng các hình thức vui chơi, giải trí như Games online, Billiards đã gây ảnh hưởng không tốt đến việc chuyên cần học tập và rèn luyện của một số học sinh ở các trường. • Ban đại diện cha mẹ học sinh (BĐD CMHS) Theo điều lệ Hội cha mẹ học sinh được Bộ GD-ĐT ban hành kèm theo quyết định số 278/QĐ ngày 21/02/1992: Hội cha mẹ học sinh ở mỗi trường có một ban thường trực hội, chi hội cha mẹ học sinh ở mỗi lớp có một ban thường trực chi hội. Đến năm 2000 khi ban hành Điều lệ trường Trung học, Bộ GD-ĐT xác định là Ban đại diện cha mẹ học sinh trường / lớp thay vì Ban thường trực hội / chi hội như trước. Ngày 02/4/2007 Bộ GD-ĐT ra quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, trong đó có quy định về Ban đại diện cha mẹ học sinh: Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp và các giáo viên bộ môn để giáo dục học sinh; Ban đại diện cha mẹ học sinh trường phối hợp với nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục. Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh thực hiện theo Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh (nhưng đến nay Bộ GD-ĐT vẫn chưa ban hành). 1.2.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh Giáo dục liên quan đến mọi người, là lợi ích của mọi người, mọi gia đình, mọi cộng đồng, do đó toàn xã hội phải có trách nhiệm đối với giáo dục và việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội là không thể thiếu trong quá trình giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và 11 ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn: “Trẻ em trong như tấm gương, cái tốt dễ tiếp thu, cái xấu cũng dễ tiếp thu. Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em, và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình và xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”... [19, tr.11] Văn kiện hội nghị lần thứ II Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dục: “Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mỗi công dân. Cần kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh; người lớn làm gương cho con trẻ noi theo.” [4, tr.9] Chương VI của Luật Giáo dục năm 2005 quy định sự phối hợp giữa ba môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Điều 94 quy định trách nhiệm của gia đình: “Cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học tập, rèn luyện, tham gia các họat động của nhà trường. Mọi người trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hoá, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của con em; người lớn tuổi có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục”. Điều 95 nói về quyền của cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh: “Cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh có quyền yêu cầu nhà trường cho biết kết quả học tập, rèn luyện của con em hoặc người được giám hộ; tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường và các hoạt động của cha mẹ học sinh trong nhà trường ”. Khoản 2 điều 28 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định : “Nhà trường có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em;
Luận văn liên quan