Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập trở thành thành
viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO. Sự kiện này là một mốc son lịch sử
đánh dấu quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh tính cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, chúng ta tiếp nhận từ các tập đoàn kinh tế lớn trên thế
giới không chỉ ở nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà tiếp nhận
cả kinh nghiệm quản trị công ty của họ. Với sự phát triển và hội nhập nền kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam tất y ếu sẽ hình thành các tập đoàn kinh tế
mang tầm cỡ quốc tế vƣơn chi nhánh hoạt động tới các nƣớc trong khu vực và thế
giới trở thành các công ty, tập đoàn đa quốc gia. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang
phải thực hiện lộ trình mở cửa đối với lĩnh vực ngân hàng. Đã có một số ngân hàng
100% vốn nƣớc ngoài đƣợc phép thành lập tại Việt Nam. Với sức hấp dẫn của thị
trƣờng Việt Nam, nhiều quỹ và công ty tài chính đang tích cực đầu tƣ vào Việt nam
nên sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng mạnh mẽ. Trong
điều kiện nhƣ vậy , các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và hoạt động
vững mạnh trên thị trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ trên trƣờng quốc tế trong tƣơng lai
đòi hỏi các ngân hàng không chỉ phải có nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ kỹ
thuật hiện đại, đội ngũ nhân lực có trình độ cao mà còn là vấn đề hiệu quả quản trị
chi nhánh, hiệu quả quản trị toàn hệ thống ngân hàng. Với ý nghĩa và tính cấp thiết
về vấn đề quản trị chi nhánh của các ngân hàng, học viên xin đƣợc tìm hiểu và
nghiên cứu về đề tài: "Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh
nghiệm của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và bài học cho các Ngân
hàng Thƣơng mại Việt Nam" với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc
nâng cao trình độ quản trị chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Thƣơng mại Việt
Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Đồng thời, học viên lựa
chọn đề tài này để làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản trị Kinh
doanh tại trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội.
140 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia – kinh nghiệm của ngân hàng muzuho corporate, ltd và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------------
TRẦN THỊ HỒNG CẢO
QUẢN TRỊ CHI NHÁNH TẠI NGÂN HÀNG ĐA
QUỐC GIA – KINH NGHIỆM CỦA NGÂN HÀNG
MUZUHO CORPORATE, LTD VÀ BÀI HỌC CHO
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH MINH
Hà Nội, 2010
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập trở thành thành
viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO. Sự kiện này là một mốc son lịch sử
đánh dấu quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh tính cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, chúng ta tiếp nhận từ các tập đoàn kinh tế lớn trên thế
giới không chỉ ở nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà tiếp nhận
cả kinh nghiệm quản trị công ty của họ. Với sự phát triển và hội nhập nền kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn kinh tế
mang tầm cỡ quốc tế vƣơn chi nhánh hoạt động tới các nƣớc trong khu vực và thế
giới trở thành các công ty, tập đoàn đa quốc gia. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang
phải thực hiện lộ trình mở cửa đối với lĩnh vực ngân hàng. Đã có một số ngân hàng
100% vốn nƣớc ngoài đƣợc phép thành lập tại Việt Nam. Với sức hấp dẫn của thị
trƣờng Việt Nam, nhiều quỹ và công ty tài chính đang tích cực đầu tƣ vào Việt nam
nên sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng mạnh mẽ. Trong
điều kiện nhƣ vậy, các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và hoạt động
vững mạnh trên thị trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ trên trƣờng quốc tế trong tƣơng lai
đòi hỏi các ngân hàng không chỉ phải có nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ kỹ
thuật hiện đại, đội ngũ nhân lực có trình độ cao mà còn là vấn đề hiệu quả quản trị
chi nhánh, hiệu quả quản trị toàn hệ thống ngân hàng. Với ý nghĩa và tính cấp thiết
về vấn đề quản trị chi nhánh của các ngân hàng, học viên xin đƣợc tìm hiểu và
nghiên cứu về đề tài: "Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh
nghiệm của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và bài học cho các Ngân
hàng Thƣơng mại Việt Nam" với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc
nâng cao trình độ quản trị chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Thƣơng mại Việt
Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Đồng thời, học viên lựa
chọn đề tài này để làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản trị Kinh
doanh tại trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài về các tập đoàn hay công ty đa quốc gia, đã có một số
đề tài đề cập đến nhƣng chỉ tập trung vào các vấn đề chuyển giao công nghệ, vốn
giữa các chi nhánh của tập đoàn đa quốc gia. Hiện tại chƣa có đề tài nào nghiên cứu
về vấn đề tƣơng tự nhƣ đề tài luận văn tiến hành nghiên cứu ở trên. Trên cơ sở phân
tích và kế thừa các công trình nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, học viên tiến
hành nghiên cứu một cách tổng thể về một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của
ngân hàng đa quốc gia trong đó đi sâu nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của
Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số kinh nghiệm trong quản
trị chi nhánh có thể áp dụng trong quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thƣơng
mại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu tìm hiểu hoạt động quản trị chi
nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số bài học giúp
nâng cao năng lực quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa
quốc gia.
- Tìm hiểu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia Mizuho
Corporate Bank, Ltd.
- Rút ra bài học kinh nghiệm giúp các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam quản
trị chi nhánh một cách hiệu quả.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân
hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam.
3
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và của
các Ngân hàng Thƣơng mại Việt nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học phổ biến, đặc biệt
là kết hợp phƣơng pháp định lƣợng và định tính trong nghiên cứu lý luận cũng nhƣ
trong đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn đƣợc chia thành ba phần tƣơng ứng với ba chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa
quốc gia.
Chương 2: Nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia
Mizuho Corporate Bank, Ltd
Chương 3: Một số đề xuất nhằm áp dụng bài học kinh nghiệm trong quản trị chi
nhánh của MHCB đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
Trong luận văn còn có nhiều vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu và đƣa ra các biện
pháp ứng dụng hiệu quả vào Ngân hàng Thƣơng mại Việt nam nên đề tài còn cần
nhiều đóng góp ý kiến và thảo luận thêm. Học viên rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng
góp của Quý Thầy Cô và các bạn thông qua địa chỉ email: caotran168@gmail.com
hoặc số điện thoại: 0912 269 585.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2010.
4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CHI NHÁNH
TRONG CÁC NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA
1.1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng đa quốc gia
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm về công ty đa quốc gia: Ngân hàng đa quốc gia là một thực thể cụ
thể của công ty đa quốc gia nên trƣớc khi tìm hiểu khái niệm cơ bản về ngân hàng
đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là công ty đa quốc gia. Theo từ điển
Wipkipedia: "Công ty đa quốc gia, thƣờng viết tắt là MNC (Multinational
Corporation) hoặc MNE (Multinational Enterprises) là công ty sản xuất hoặc cung
cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia" [7, tr. 10]. Nhiều công ty đa quốc gia lớn có
ngân sách vƣợt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh
hƣởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế của các quốc gia. Chúng
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Thông thƣờng các công ty
đa quốc gia thƣờng tạo ra các phiên bản nhỏ của chính nó ở mỗi công ty.
Định nghĩa khác về công ty đa quốc gia:
Công ty đa quốc gia là doanh nghiệp có hoạt động trên khắp thế giới với thị
trƣờng và hoạt động sản xuất ở nƣớc ngoài cộng với triết lý toàn cầu đƣợc hợp nhất
bao gồm cả các hoạt động ở trong nƣớc và ở nƣớc ngoài. Một công ty đa quốc gia
thƣờng sử dụng hầu hết các dạng hoạt động kinh doanh quốc tế nhƣ xuất khẩu, hoạt
động cấp phép kinh doanh (licence), đầu tƣ nƣớc ngoài gián tiếp và trực tiếp [4, tr.
15].
Định nghĩa công ty đa quốc gia của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD):
Một công ty đa quốc gia bao gồm nhiều công ty hay thực thể kinh tế. Những
thực thể này có thể thuộc quyền sở hữu cá nhân, thuộc quyền sở hữu nhà nƣớc hay
5
sở hữu hỗn hợp, đƣợc thành lập ở nhiều nƣớc khác nhau và có mối liên kết chặt chẽ.
Chúng ảnh hƣởng đến hoạt động của nhau và đặc biệt cùng có chung mục đích và
nguồn vốn kinh doanh. Trong một công ty đa quốc gia, mức độ tự chủ của các thực
thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất mối liên kết và lĩnh vực hoạt động giữa
chúng [11, tr. 8].
Định nghĩa công ty đa quốc gia của Liên Hiệp Quốc năm 1978: “Công ty đa
quốc gia là những công ty nắm quyền sở hữu hay kiểm soát hoạt động sản xuất và
hệ thống bán hàng tại nhiều nƣớc khác ngoài nƣớc của mình. Đây không chỉ là công
ty cổ phần, công ty tƣ nhân, mà chúng có thể là những công ty dƣới hình thức hợp
tác xã hay thực thể thuộc quyền sở hữu nhà nƣớc” [6, tr.8].
Qua một số định nghĩa về công ty đa quốc gia nêu trên chúng ta thấy về mặt
định lƣợng, công ty đa quốc gia có phạm vi hoạt động là từ hai nƣớc trở lên; tỷ lệ
lợi nhuận thu từ những hoạt động ở nƣớc ngoài thƣờng chiếm tỷ trọng lớn, từ 25% -
30% [7, tr.11]; mức độ thâm nhập thị trƣờng nƣớc ngoài khá vững chắc, đủ chắc
chắn để đƣa ra các quyết định kinh doanh. Về mặt định tính: công ty đa quốc gia có
sự quản lý và hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế, triết lý quản trị công ty có
thể phân thành "dân tộc" (hƣớng nội), đa dạng (hƣớng theo thị trƣờng nƣớc ngoài),
khu vực hay vùng (hƣớng đến khu vực rộng lớn hơn, có thể là toàn cầu). Các công
ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phƣơng tiện sản xuất: i)
Công ty quốc gia theo chiều ngang: sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tƣơng tự
ở các quốc gia khác nhau; ii) Công ty đa quốc gia theo chiều dọc: có các cơ sở sản
xuất ở một số nƣớc nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở
một số nƣớc khác; iii) Công ty đa quốc gia nhiều chiều: có các cơ sở sản xuất ở các
nƣớc khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc.
Khái niệm về ngân hàng đa quốc gia: Trong phần trên chúng ta đã có một số
khái niệm cơ bản về công ty đa quốc gia. Trƣớc khi tìm hiểu ngân hàng đa quốc gia,
chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm ngân hàng. Nói chung, ngân hàng theo nghĩa
truyền thống là một định chế tài chính cung cấp hai loại dịch vụ chính cho công
6
chúng là nhận tiền gửi và cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các
định chế tài chính khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Ở Anh, ngân hàng đƣợc coi là
một tổ chức bằng hoạt động của mình tiến hành thu nhận vốn dƣới hình thức tiền
gửi và cấp tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp. Còn tại Việt Nam: "Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng đƣợc thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động khác có liên quan" [30, (điều 20)] trong đó "Tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp đƣợc thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi cung cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán...".
Tuy có nhiều cách diễn giải khác nhau để làm rõ khái niệm về ngân hàng nhằm
phân biệt ngân hàng với các định chế tài chính khác nhƣng có điểm chung nhất
trong các định nghĩa về ngân hàng đó là chỉ có ngân hàng mới thực hiện các khoản
cho vay và bán ra những tài khoản thanh toán, ngoài những dịch vụ tài chính giống
nhƣ các định chế tài chính khác cũng thực hiện. Nhƣ vậy, có thể hiểu ngân hàng là
một định chế tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, trong đó nghiệp vụ
cơ bản và truyền thống là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thực hiện dịch vụ thanh
toán. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, có loại hình ngân hàng thƣơng mại,
ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tƣ, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình tổ chức ngân hàng khác.
Qua những khái niệm về công ty đa quốc gia và ngân hàng đơn thuần ở trên,
chúng ta có thể hiểu Ngân hàng đa quốc gia là ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài
chính có phạm vi hoạt động ở hai hay nhiều nƣớc, có trụ sở hoạt động chính tại một
nƣớc và có các chi nhánh hoạt động ở nhiều nƣớc trên thế giới. Nhƣ các công ty đa
quốc gia hoạt động trong các lĩnh vực khác trên thế giới, ngân hàng đa quốc gia là
một thực thể kinh tế gồm nhiều công ty hoặc chi nhánh hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng nhƣ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán...
hoặc các ngành khác có liên quan đến hoạt động đầu tƣ tài chính tại nhiều nƣớc trên
thế giới. Mỗi công ty con hoặc chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại
các nƣớc là những pháp nhân độc lập, trong đó có một ngân hàng đóng vai trò làm
7
nòng cốt là ngân hàng mẹ. Giữa các chi nhánh và ngân hàng mẹ có mối liên kết nhất
định về tài chính, về quản lý, thông tin hoặc về vấn đề thƣơng hiệu... để cùng nhau
thực hiện một liên kết có quy mô lớn, nhằm đạt đƣợc các tôn chỉ, mục đích, sứ
mệnh và hiệu quả hoạt động của cả công ty một cách tối đa.
Khái niệm về quản trị: Trƣớc khi tìm hiểu về quản trị chi nhánh trong các
ngân hàng đa quốc gia, chúng ta tìm hiểu về khái niệm quản trị chung trong công ty
và quản trị chi nhánh.
Có nhiều khái niệm về quản trị nhƣng có thể hiểu quản trị là một quá trình
tổng thể về bố trí, sắp xếp nhân lực và tài nguyên một cách hiệu quả hƣớng đến các
mục tiêu nhất định của một tổ chức. Liên quan đến vấn đề quản trị trong công ty, có
hai khái niệm là quản trị công ty (QTCT) và quản trị kinh doanh (QTKD). Nhiều
ngƣời cho rằng quản trị chính là QTKD hoặc cũng chính là QTCT. Thực ra hai khái
niệm này không giống nhau. QTKD là điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp do Ban Giám đốc thực hiện. Còn QTCT, theo từ điển Bách
khoa toàn thƣ Wikipedia [35], là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ
nhằm định hƣớng, vận hành và kiểm soát công ty. QTCT cũng bao hàm mối quan
hệ giữa nhiều bên, không chỉ nội bộ công ty mà còn những bên có lợi ích liên quan
bên ngoài công ty nhƣ các cơ quan quản lý Nhà nƣớc, các đối tác kinh doanh và cả
môi trƣờng, cộng đồng và xã hội. Có thể hiểu QTCT là một quá trình giám sát và
kiểm soát để đảm bảo hoạt động quản trị kinh doanh phù hợp với lợi ích của các cổ
đông. QTCT ở nghĩa rộng còn hƣớng đến đảm bảo quyền lợi của những ngƣời liên
quan không chỉ là cổ đông mà còn bao gồm các nhân viên, khách hàng, nhà cung
cấp, môi trƣờng và các cơ quan nhà nƣớc. QTCT đƣợc đặt trên cơ sở của sự tách
biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu công ty là nhà đầu tƣ hoặc
các cổ đông... nhƣng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự điều hành của Hội
đồng Quản trị (HĐQT), Ban giám đốc và những đóng góp của ngƣời lao động mà
những ngƣời này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng cần
phải có một cơ chế quản lý, điều hành và kiểm soát để nhà đầu tƣ, cổ đông có thể
kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Điểm mấu chốt
8
nhất của QTCT là phải có đƣợc HĐQT có đủ tầm để chỉ đạo và kiểm soát công ty.
Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao nhất của doanh
nghiệp, nơi vạch ra những chiến lƣợc và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. QTCT tốt sẽ có tác dụng làm cho các quyết định và hành động
của Ban Giám đốc thể hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tƣ, cổ đông
và những ngƣời có lợi ích liên quan. Nói gọn lại, QTCT là mô hình cân bằng và
kiềm chế quyền lực giữa các bên liên quan của công ty, hƣớng tới sự phát triển dài
hạn của công ty.
Quản trị chi nhánh: Chúng ta đã có một số khái niệm về vấn đề quản trị
trong công ty. Quản trị chi nhánh là hoạt động quản lý của công ty mẹ hoặc hội sở
chính với chi nhánh, đảm bảo sự phát triển bền vững cho các chi nhánh cũng nhƣ
của toàn bộ công ty.
Để hiểu hơn về hoạt động quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia,
chúng ta tìm hiểu một số đặc điểm chung trong việc quản trị chi nhánh của ngân
hàng đa quốc gia nhƣ sau:
Thứ nhất, đó là quyền sở hữu tập trung: ngân hàng con hay các chi nhánh
trên khắp thế giới đều thuộc quyền sở hữu tập trung của ngân hàng mẹ, mặc dù
chúng có những hoạt động cụ thể hàng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau và
giống ngân hàng mẹ, các chi nhánh đƣợc phép cung cấp các dịch vụ cụ thể tại các
nƣớc tùy thuộc vào luật pháp các nƣớc quy định
Thứ hai, các nhà lãnh đạo ngân hàng đa quốc gia thƣờng xuyên theo đuổi
những chiến lƣợc quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy nhiên,
mỗi ngân hàng đa quốc gia có thể có nhiều chiến lƣợc và kỹ thuật hoạt động đặc
trƣng để phù hợp với từng địa phƣơng nơi có chi nhánh, trụ sở hoạt động.
Thứ ba, về quản trị tài chính quốc tế hoặc các hoạt động quản trị khác trong
các ngân hàng con, chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại các nƣớc
trên thế giới cũng có nhiều khác biệt so với ngân hàng mẹ và các chi nhánh ngân
hàng hoạt động đơn thuần trên thị trƣờng nội địa nhƣ sự khác biệt về hệ thống tiền
9
tệ, khác biệt về cơ sở hạch toán lợi nhuận, các quy định chính sách pháp luật, văn
hóa, chính trị...
Nhƣ vậy, quản trị chi nhánh tại các ngân hàng đa quốc gia là hoạt động quản
trị của ngân hàng mẹ có trụ sở tại một nƣớc với các ngân hàng con hay chi nhánh
ngân hàng hoạt động tại nƣớc của ngân hàng mẹ và tại các nƣớc khác trên thế giới,
thông qua các quy định, chính sách, kế hoạch thực hiện và các hoạt động kiểm soát
của ngân hàng mẹ với các ngân hàng con hoặc chi nhánh nhằm đảm bảo các ngân
hàng con hoặc chi nhánh hoạt động theo các mục tiêu, định hƣớng phát triển chung
của ngân hàng mẹ. Đồng thời đảm bảo các ngân hàng con hoặc chi nhánh ngân
hàng hoạt động đạt hiệu quả nhất dƣới tác động của môi trƣờng vĩ mô quốc tế và
môi trƣờng ngành quốc tế.
1.1.2. Một số đặc điểm của ngân hàng đa quốc gia
Trong môi trƣờng hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, các ngân hàng đa
quốc gia luôn phải chú ý tới những sự khác biệt cơ bản trong quá trình hoạt động.
Những sự khác biệt cơ bản đó là:
Thứ nhất, đó là sự khác biệt về hệ thống tiền tệ: vấn đề mà các ngân hàng đa
quốc gia rất chú trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh và hoạt động quản trị
chi nhánh trên phạm vi toàn cầu là vấn đề quản lý tài chính giữa các chi nhánh trên
toàn thế giới và vấn đề hợp nhất tài chính giữa các chi nhánh với công ty mẹ. Do
môi trƣờng hoạt động kinh doanh giữa các chi nhánh và Hội sở chính là khác nhau,
các chi nhánh sử dụng các loại tiền tệ khác nhau, áp dụng các hệ thống kế toán khác
nhau... Trong vấn đề quản lý tài chính, các chi nhánh hoạt động tại các nƣớc ghi
nhận các dòng lƣu thông tiền tệ luân chuyển vào và ra thông qua các hệ thống hạch
toán kế toán theo quy định cụ thể tại nƣớc sở tại nơi có chi nhánh hoạt động. Các
nghiệp vụ tài chính phát sinh do đó phải hạch toán bằng hệ thống kế toán tại nƣớc
sở tại và tính toán trên tiền bản xứ sau đó qui đổi ra đơn vị tiền tệ thống nhất của
ngân hàng mẹ (đơn vị tiền tệ thống nhất thƣờng là ngoại tệ mạnh hoặc là loại tiền
Hội sở chính sử dụng). Nhƣ vậy, khi phân tích tình hình tài chính của ngân hàng đa
10
quốc gia cần chú ý tới các chỉ tiêu phân tích tỷ giá hối đoái hoặc phân tích ảnh
hƣởng của biến động giá trị tiền tệ hay cơ chế kế toán...
Thứ hai, đó là về thể chế chính trị và kinh tế: Mỗi quốc gia có khuôn mẫu và
đặc thù kinh tế và chính trị riêng. Sự khác biệt này là một vấn đề rất quan trọng
trong các đối sách của ngân hàng đa quốc gia trong việc điều hành và quản lý các
ngân hàng con và các chi nhánh trên qui mô toàn thế giới.
Thứ ba là sự khác biệt về ngôn ngữ: Khả năng giao tiếp là yêu cầu hàng đầu
trong mọi giao dịch kinh doanh, trong đó ngôn ngữ đóng vai trò trọng yếu. Vì vậy
các ngân hàng đa quốc gia muốn bành trƣớng việc kinh doanh của mình ra khỏi
biên giới quốc gia thì vấn đề hàng đầu cần quan tâm đó là khả năng ngoại ngữ của
nƣớc sở tại.
Thứ tư là sự khác biệt về văn hoá: Mỗi nƣớc có bản sắc văn hoá riêng và ảnh
hƣởng sâu sắc tới hoạt động kinh doanh trong xã hội. Chính vì vậy, các ngân hàng
đa quốc gia muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, mở thêm chi nhánh hoạt động
hay thực hiện các mục tiêu kinh doanh ở nƣớc ngoài cần đặc biệt quan tâm đến vấn
đề này.
Từ những khác biệt trong môi trƣờng kinh doanh quốc tế trên chúng ta thấy
ngân hàng đa quốc gia có một số đặc điểm sau:
Trƣớc hết về mặt xuất xứ, các ngân hàng đa quốc gia là sản phẩm của sự liên
minh giữa những nhà tƣ bản có thế lực nhất. Đặc trƣng này phân biệt các ngân hàng
đa quốc gia trong thời đại tƣ bản tài chính, tức là các ngân hàng đa quốc gia hiện
đại, với các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế ra đời trong thời kỳ tƣ bản tự
do cạnh tranh và ngay cả thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tƣ bản. Trong
thời đại ngày nay, khi quốc tế hoá sản xuất đƣợc đẩy mạnh, các công ty của những
quốc gia đang phát triển, nhất là những công ty thuộc nhóm các nƣớc công nghiệp
mới, mở rộng th