Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa
điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà
đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu
sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất
nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần
thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng,
Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả
nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2005 của cả nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp
thứ 5, khoá XI. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã được triển khai ở tất cả 64
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước và được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất vẫn còn bộc lộ một số tồn tại. Đặc biệt sau khi quy hoạch, sử dụng
đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc
thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập diễn ra dẫn đến tình trạng "quy hoạch
treo" ho ặc không điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá
trình thực thi quy hoạch tại địa phương.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài " Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum " để nghiên cứu, khảo sát tình
hình quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thực tế trên địa bàn tỉnh Kon Tum
nhằm đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời, những nội dung sử dụng đất
nông nghiệp bất hợp lý, không phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp đã được phê duyệt góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp ở địa phương.
104 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3852 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển
cây công nghiệp ở tỉnh
Kon Tum
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa
điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh như trong các ngành kinh tế khác, mà
đất đai còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là tư liệu
sản xuất đặc biệt. Nhận thấy được tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất
nông nghiệp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách phù hợp trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần
thúc đẩy nền nông nghiệp nước nhà phát triển. Trong đó, công tác lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng,
Chính phủ được triển khai trên phạm vi cả nước và đạt được một số kết quả
nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2005 của cả nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp
thứ 5, khoá XI. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã được triển khai ở tất cả 64
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong cả nước và được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất vẫn còn bộc lộ một số tồn tại. Đặc biệt sau khi quy hoạch, sử dụng
đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc
thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập diễn ra dẫn đến tình trạng "quy hoạch
treo" hoặc không điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá
trình thực thi quy hoạch tại địa phương.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài " Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum " để nghiên cứu, khảo sát tình
hình quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thực tế trên địa bàn tỉnh Kon Tum
nhằm đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời, những nội dung sử dụng đất
nông nghiệp bất hợp lý, không phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp đã được phê duyệt góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi đổi mới đến nay, ở nước ta việc nghiên cứu vấn đề đất nông
nghiệp đã có một số công trình, bài viết về vấn đề này như:
- "Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm
nghiệp ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn" của Ngô Xuân Hoàng, Luận án
tiến sĩ, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, 2003.
- "Khai thác nguồn lực đất đai để phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng
Nai", của Bùi Thị Thuận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- "Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng
hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ" của Nguyễn Tiến Khôi, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
- "Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay" của Hà Công
Nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- "Quản lý sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên" của TS. Nguyễn
Thế Toàn (chủ nhiệm đề tài), Đề tài khoa học cấp bộ, 2000.
- "Thực trạng quản lý nhà nước về đất đai nông nghiệp ở Việt Nam và
kiến nghị" Nguyễn Mạnh Tuân, Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
số 7/2004.
- "Quản lý và sử dụng đất ở các nông, lâm trường các tỉnh miền núi
phía Bắc" Bùi Quang, Tài nguyên và môi trường, số 12/2004.
Đối với Kon Tum, những đề tài đi sâu vào nghiên cứu quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp chưa có công trình nào.
Do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng góp một phần nhỏ trong việc tìm
ra những giải pháp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai trong việc
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch,
sử dụng đất nông nghiệp; phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất nông
nghiệp ở Kon Tum, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy
hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát, hệ thống hoá lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm quy hoạch, sử dụng có hiệu quả đất
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum trong thời gian
tới.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công
nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, như phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá khoa học, trong đó đặc
biệt coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê, nghiên cứu và tổng
kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp từng bước hoàn thiện quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở Kon Tum trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ QUY HOẠCH, SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. ĐẤT NÔNG NGHIỆP, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Đất nông nghiệp và đặc điểm của đất nông nghiệp
* Khái niệm đất nông nghiệp:
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản
xuất chủ yếu và đặc biệt là của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố
quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế,
chính trị, xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như
vậy, đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời
sống. Theo từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực của đời sống, đất đai được
phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành, lĩnh vực chung được sử
dụng.
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản
hoặc để sử dụng nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất
nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất.
Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử
dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất
đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới
được coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ theo việc sử
dụng vào mục đích nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng
đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất
nông nghiệp mà không cần có sự đầu tư nào lớn cả là đất nông nghiệp cho dù
đất đó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa.
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu của đất đai, tại Điều 13 luật đất
đai năm 2003 có ghi:
* Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào
chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác.
- Đất trồng cây lâu năm.
- Đất rừng sản xuất.
- Đất rừng phòng hộ.
- Đất rừng đặc dụng.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản.
- Đất làm muối.
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, có thể hiểu đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào
sản xuất của ngành nông nghiệp bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất
nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khai thác theo quy định
của Chính phủ.
* Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:
Ở mỗi quốc gia đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác
nhau, riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được biểu
hiện cụ thể:
Một là, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu.
Đất nông nghiệp là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế được của ngành nông - lâm nghiệp. Nó là cơ sở tự
nhiên là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ:
"đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi
hoạt động của loài người" [24, tr.473].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn của đất nước" [8,
tr.61].
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ
yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Vì đất nông nghiệp vừa là tư liệu lao
động vừa là đối tượng lao động. Đối với các loại đất chuyên dùng khác thì đất
đai chỉ là đối tượng lao động, con người phải sử dụng tư liệu lao động để tác
động vào tạo ra sản phẩm.
Đất nông nghiệp là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ
sản xuất tác động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng, như cày, bừa, lên
luống... quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận
lợi để tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Ngược lại, khi con người sử
dụng công cụ sản xuất tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá
học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác dụng lên cây trồng.
Trong quá trình này đất nông nghiệp đóng vai trò là tư liệu lao động. Sự kết
hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho đất nông nghiệp
trở thành tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp.
Hai là, đất nông nghiệp có vị trí cố định và không thể di chuyển được.
Đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là tài nguyên thiên nhiên
không sinh sản được. Bởi vì, không giống như vốn, chúng không thể sản sinh
thêm thông qua quá trình sản xuất. Đất nông nghiệp có vị trí cố định không di
chuyển được và có khả năng tái tạo được.
Các tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần
thiết, nhưng hầu hết đều không có khả năng tái tạo lại được. Ngược lại, đất
nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại có vị trí cố định không thể
di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, nó gắn liền với điều kiện tự nhiên,
điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi vùng. Đặc tính này đồng thời nó quy định tính
giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chịu sự
chi phối, gắn liền với nguồn gốc hình thành của đất đai, địa hình, khí hậu, kết
cấu đất, độ màu mỡ, vị trí của đất... vị trí của đất nông nghiệp có ý nghĩa lớn về
mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Thông thường, đất nông
nghiệp ở gần các khu đô thị, thuận tiện về giao thông thường được khai thác sử
dụng triệt để hơn đất đai ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, và do đó vị trí đất mang
lại cho đất nông nghiệp đặc tính xã hội là có giá trị sử dụng lớn hơn.
Mặt khác, cùng với xu thế đô thị hoá ngày càng nhanh, chủ thể sử dụng
đất có xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục
đích khác để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Quá trình này làm cho diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Ở Việt Nam xu hướng này đã và
đang diễn ra ngày một nhanh chóng, trong 10 năm từ năm 1990 - 2000 đất
trồng lúa nước ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ bị giảm
không có diện tích bù đã lên tới 62.612ha thường là ruộng lúa tốt [4, tr.15].
Đặc điểm này đòi hỏi để sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, cần kết
hợp sức lao động với các tư liệu sản xuất khác một cách hợp lý. Muốn thế,
một mặt phải quy hoạch đồng bộ các khu vực canh tác đất nông nghiệp, bố trí
các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý; mặt khác, phải cải
thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu
hạ tầng nhằm tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, nâng cao
đời sống nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn.
Ba là, đất nông nghiệp bị giới hạn về mặt diện tích, nhưng sức sản xuất
của nó lại là không giới hạn.
Do đặc điểm tự nhiên của đất đai quy định, cho nên diện tích đất nông
nghiệp đưa vào canh tác luôn bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm:
giới hạn tuyệt đối và giới hạn tương đối. Xét trên góc độ giới hạn tuyệt đối
thì diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa
phương là những con số hữu hạn, có thể lượng hoá bằng những con số cụ thể.
Ví dụ, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Kon Tum là 961.450ha của cả nước
Việt Nam là 32.924,1 nghìn ha [4, tr.5], tổng diện tích đất có tiềm năng sản
xuất nông nghiệp của thế giới là khoảng 3.200 triệu ha, trong đó có 46% đang
được canh tác [15, tr.17]. Theo tính toán của Liên hợp quốc, có khoản 23%
diện tích trên toàn thế giới là sa mạc hoặc đất cằn, 20% là nửa khô cằn,
khoảng 80 triệu người sống ở những vùng đất hầu như không sử dụng được vì
xói mòn, bãi cát hoặc ngập mặn.
Không phải tất cả diện tích tự nhiên đều đưa vào canh tác được, tùy
thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế của từng
nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm
thích hợp. Đó là giới hạn tương đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng
quỹ đất tự nhiên bởi tác động của yếu tố đất đai, khí hậu, thời tiết đa dạng,
phức tạp dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp mang
tính khu vực và tính thời vụ rõ rệt.
Ở nước ta tỷ lệ đất nông nghiệp so với tổng quỹ đất tự nhiên năm 2000
chiếm 28,38%, có khả năng đưa lên tối đa là 35% với tổng diện tích tự nhiên
329.241km2, Việt Nam là nước có quy mô trung bình, xếp thứ 66 trong tổng
số trên 200 nước, nhưng là nước đông dân thứ 13 thế giới nên bình quân đất
đai theo đầu người rất thấp, chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thế giới (0,45ha),
đứng hàng thứ 8 Đông Nam Á và thứ 170 trong số trên 200 nước trên thế
giới [4, tr.5].
Trong những năm gần đây, quỹ đất nông nghiệp ở nước ta đã có những
biến động đáng kể theo hướng tăng lên từ mức xấp xỉ 7 triệu ha năm 1990 lên
9.345.200 ha vào năm 2000. Nhưng đó chủ yếu là sự gia tăng mạnh về diện
tích đất trồng cây lâu năm ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên lên mức
1.467.951, chiếm 67,3% diện tích trồng cây lâu năm của cả nước, còn diện
tích trồng lúa lại giảm xuống. Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp luôn
chịu ảnh hưởng của giới hạn về diện tích đất tự nhiên, nhất là những vùng hay
khu vực có quỹ đất tự nhiên gần như đã được đưa vào khai thác và sử dụng
hết thì việc mở rộng diện tích tự nhiên gặp rất nhiều trở ngại. Mặt khác,
không phải toàn bộ diện tích đất tự nhiên đều có thể dễ dàng chuyển hoá
thành đất nông nghiệp. Trên thực tế, việc chuyển hoá đất tự nhiên thành đất
nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố như địa hình, kết cấu của đất,
điều kiện canh tác, khả năng tưới tiêu...
Tuy nhiên, dù bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của
đất nông nghiệp lại không có giới hạn, nghĩa là trên mỗi đơn vị diện tích
đất nông nghiệp, nếu không ngừng tăng cường đầu tư vốn, sức lao động,
đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất thì số lượng sản phẩm đem
lại trên một đơn vị sản phẩm là ngày càng nhiều hơn và chất lượng hơn.
Đây là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
và phát triển kinh tế nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản
phẩm cung cấp cho xã hội.
Adam Smith đã viết: "đất, trong hầu hết các tình huống, sản sinh ra một
lượng lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người
lao động" [1, tr.240].
Như vậy, xét về tổng thể, quỹ đất tự nhiên nói chung và quỹ đất nông
nghiệp nói riêng luôn bị giới hạn về mặt diện tích, trong khi đó nhu cầu về
nông sản phẩm của con người ngày càng tăng lên. Do đó, phải sử dụng đất
nông nghiệp hết sức tiết kiệm và xem xét kỹ lưỡng hợp lý khi bố trí sử dụng
các loại đất. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng khả năng
phục hồi và tái tạo của đất đai.
Bốn là, đất nông nghiệp vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của
lao động.
Đất nông nghiệp vốn là sản phẩm của tự nhiên, nó xuất hiện và tồn tại
ngoài ý muốn của con người. Đất nông nghiệp được hình thành do quá trình
phong hoá đá và sự tác động của vi sinh vật, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... và
do con người tiến hành khai phá, đưa vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của
con người. Trong quá trình lịch sử lâu dài đó, lao động của con người qua
nhiều thế hệ đã được kết tinh vào đó. Do đó, ngày nay đất nông nghiệp vừa là
sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động.
C.Mác viết: "Tuy có những thuộc tính như nhau, nhưng một đám đất
được canh tác có giá trị hơn một đám đất bị bỏ hoang" [24, tr.246].
Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng con người cần phải không
ngừng cải tạo và bồi dưỡng, đồng thời phải khai thác đất nông nghiệp cho hợp
lý làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn. Thực tế cho thấy, đất đai là tư liệu sản
xuất chủ yếu không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì
đất đai ngày càng tốt hơn. Việc sử hợp lý ruộng đất hay không là tuỳ thuộc
vào quá trình sử dụng có kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng ruộng đất
với việc bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất đai hay không. Vì thế trong quá trình
sử dụng đất nông nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo vệ đất, chống xói
mòn, rửa trôi. Phải thường xuyên coi trọng công tác bồi dưỡng và cải tạo đất
làm tăng độ phì nhiêu của đất đai.
Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước, với tư cách là đại
diện cho quyền sở hữu đó, thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để thực
hiện việc giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất đối với các tổ chức và các hộ
gia đình và cá nhân có nhu cầu. Qua đó thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất
đai một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khuyến khích người lao động định
hướng, lựa chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "quyền sử dụng đất là hàng
hoá đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, người đầu tư và
người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước,
của xã hội..." [9, tr.61].
Như vậy, việc Đảng và Nhà nước ta thừa nhận quyền sử dụng đất là
một hàng hoá đặc biệt đã tạo cho lĩnh vực nông nghiệp có bước phát triển
mới. Nó đòi hỏi người sản xuất nông nghiệp phải sử dụng đất hợp lý, tiết
kiệm để đem lại hiệu quả cao nhất.
Năm là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều
Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa
các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình
hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người.
Độ màu mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dưỡng cho
cây trồng. Con người không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất,
mà còn có khả năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngược lại, nếu sử
dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn
ra ở một số vùng miền núi và trung du nước ta. Ở những vùng này, trước đây
con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác,
không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích trước đây
có độ màu mỡ cao nay đã kiệt quệ.
Vì vậy, trong quá trình sử dụng, khai thác đất nông nghiệp cần thiết
phải thường xuyên cải tạo và bồi dưỡng cho đất, không ngừng nâng cao
độ đồng đều của đất nông nghiệp ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt
năng suất cây trồng cao. Nó đòi hỏi người sản xuất phải xác định tỷ lệ về
các nguồn lực tương xứng một cách