Hương ước là một nét văn hoá, là một hiện tượng pháp luật phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam. Hương ước xuất hiện từ thế kỷ XV và tồn tại dai dẳng trong suốt thời gian dài đến tháng 8/1945. Sau một thời gian gián đoạn, năm 1989, hương ước lại xuất hiện. Sự xuất hiện lại của hương ước là một vấn đề lý thú mà giới “Dân tộc học”, “pháp luật”. nghiên cứu.
Nghiên cứu hương ước có nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, nó giúp phần tìm hiểu làng xã người Việt ở Đồng bằng Trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hầu hết các làng Việt ở đây, trước Cách mạng tháng 8 đều có hương ước. Hương ước bao gồm các quy ước về nhiều mặt về đời sống của làng xã. Nó phản ánh quá trình hình thành, phát triển của làng xã người Việt. Trong các nguồn tài liệu thành văn về xã hội làng Việt cổ truyền, hương ước là nguồn tài liệu quan trọng để tìm hiểu làng Việt xưa. Hương ước thể hiện một cách chân phương bộ mặt xã hội cổ truyền của dân tộc; đồng thời nó là tư liệu gốc để nhận biết bức tranh văn hoá tổng hợp của làng văn hoá người Việt. Nhất là ngày nay, khi tầng lớp người hiểu biết về làng Việt trước Cách mạng tháng 8 đang ngày một cạn dần, thì hương ước mãi là một nguồn tư liệu quan trọng.
Thứ hai, nghiên cứu hương ước góp phần tìm hiểu văn hoá của tộc người Việt. Như vậy, vô hình chung, hương ước phản ánh rõ nét văn hoá dân tộc Việt. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, để phục vụ cho việc phát triển đất nước hiện nay thì việc nghiên cứu và xử lý văn hoá làng là rất quan trọng. Do đó, hương ước có giá trị như một tư liệu gốc.
Thứ ba, nghiên cứu hương ước, góp phần tìm hiểu lịch sử phong kiến Việt Nam qua các triều đại. Làng Việt là một đơn vị tụ cư, nó được hình thành rất sớm. Sau này đến thế kỷ VII (năm 622) cấp xã được thành lập. Trong chế độ lịch sử Phong kiến Việt Nam, làng xã luôn là nỗi trăn trở của triều đại. Hầu như các bước phát triển thăng trầm của Nhà nước Phong kiến đều được phản ánh rất nhiều trong hương ước. Mặt khác, hương ước ra đời do nhu cầu phát triển nội tại của các cộng đồng cư dân. Lúc đầu, Nhà nước Phong kiến nghi ngờ. Sau đó, Nhà nước Phong kiến lợi dụng hương ước bằng cách lồng tư tưởng Nho giáo vào trong cộng đồng làng xã. Vì vậy nghiên cứu hương ước giúp cho chúng ta hiểu được “nắm làng”, “quản lý làng xã” của Nhà nước Phong kiến.
Thứ tư, nghiên cứu hương ước còn góp phần chỉ ra những mặt hợp lý, tích cực của hương ước (đứng từ góc độ pháp luật) trong việc quản lý xã hội ở nông thôn, đồng thời còn chỉ ra được những mặt hạn chế, tiêu cực của hương ước trong việc quản lý xã hội ở nông thôn hiện nay, nhất là việc xây dựng ý thức pháp luật cho người nông dân và đặc biệt là xem xét, kết hợp giữa “luật” và “tục” trong xã hội nông thôn ngày nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Khi xem xét lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng ta cần phải đặt hương ước trong mối quan hệ với tổ chức làng xã người Việt; hương ước trong mối quan hệ với phong tục người Việt; hương ước trong quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật.
Ba vấn đề này, từ lâu đã được các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Các tác giả người Pháp, có lẽ là những người nghiên cứu về làng Việt tương đối nhiều. Nhưng khi nghiên cứu về làng Việt, họ chủ yếu đề cập đến phong tục, lệ tục của làng Việt cổ đại.
Người đặt viên gạch đầu tiên là Phan Kế Bính, với tác phẩm: “Việt Nam phong tục”. Trong tác phẩm này, Phan Kế Bính có dẫn một bản hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”. Tiếp đó, Ngô Tất Tố có hai thiên phóng sự: “Tập án cái đình” và “việc làng”. Quảng Ninh và Vân Đình đã tố cáo chế độ cường hào, thực dân, qua các bản hương ước trong tác phẩm vấn đề dân cày; Vũ Văn Khiếu với “Đất lề quê thói”.
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Hồng Phong có viết: “Xã thôn Việt Nam”. Đây là một tác phẩm đầu tiên, giới thiệu hoàn vị về làng xã người Việt. Có thể nói người khám phá vai trò của hương ước một cách gợi mở nhất là Từ Chi (Trần Từ) trong tác phẩm “cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”. Tinh thần chủ yếu của tác phẩm này là nhìn hương ước như một cương lĩnh điều hoà các quan hệ xã hội trong làng Việt.
Sau đó hàng loạt những bài viết, những cuốn sách viết về hương ước như: Bùi Xuân Bính và Vũ Duy Mền trong bài: “hương ước – khoán ước trong làng xã người Việt” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/1982. Năm 1984 Bùi Xuân Bính lại viết: “lệ làng phép nước”. Trong thời kỳ này có lẽ đây là cuốn sách đầu tiên, bước đầu đã giới thiệu một cách tương đối có hệ thống. Từ nguồn gốc, điều kiện xuất hiện hương ước, nội dung cơ bản của hương ước, mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật nhà nước phong kiến, tác động tích cực, tiêu cực, đặt hương ước trong di sản của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị BCH Trung ương Đảng khoá VI năm 1986 (ban hành tháng 4/1988) về việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nhân dân, hộ gia đình, vị trí của làng xã đã được đề cao. Từ đó, nó phát sinh ra nhu cầu lật lại hương ước. Ban đầu nhu cầu này trỗi dậy mạnh mẽ ở tỉnh Hà Bắc.Cũng từ đó mà nó đẩy mạnh sự tìm tòi, nghiên cứu hương ước. Hàng loạt các tác phẩm nghiên cứu hương ước cũ đề ra hướng đi cho “hương ước mới” (ví dụ: xây dựng qui ước làng văn hoá mới ở Hà Bắc – do Sở văn hoá, thông tin tỉnh Hà Bắc xuất bản năm 1993). Rồi hàng loạt những bài trên tạp chí cùng với những cuốn sách, luận án về hương ước như: “hương ước lệ làng” của Lê Đức Tiếp – NXB chính trị quốc gia 1998, luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử mã số 50310: Một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ của Bùi Xuân Đính. Ở các tỉnh cũng “nở rộ” trong việc sưu tập hương ước như: Hà Tây, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Thái Bình, Hà Bắc, Hải Dương. nhất là năm 1999, đã có cuộc hội thảo quốc tế về luật tụng và sự phát triển của nó ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Tinh thần của hội thảo này đã được phản ánh rất rõ trong cuốn: “Luật tục và sự phát triển của nó trong xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay” (NXB chính trị Quốc gia năm 2000).
Nếu cắt ngang những công trình đã được nghiên cứu về hương ước, chúng ta có thể chia làm 4 nhóm như sau:
+ Nghiên cứu hương ước trong mối quan hệ với Phong tục và tổ chức làng xã: Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố, Trần Từ, Vũ Văn Khiếu, Phan Đại Doãn.
+ Các tác giả nghiên cứu hương ước làm đối tượng chính như Bùi Xuân Đính, và người đi đầu là Vũ Duy Mền.
+ Các tác giả sưu tầm và giới thiệu hương ước các tỉnh: Như hương ước tỉnh Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Bắc, Hải Dương.
+ Các tác giả nghiên cứu hương ước trong mối quan hệ với pháp luật: Đào Trí Úc, Nguyễn Đăng Dung, Hoàng Kim Quế, Lê Hồng Sơn, Hoàng Đình Thắng.
Như vậy, thành quả nghiên cứu về hương ước là rất lớn, nhất là từ thập kỷ 90 trở lại đây. Tuy nhiên nó còn mang nặng tính phong trào và họ trú trọng nhiều về phương diện “dân tộc học” nếu đứng từ góc độ pháp lý để nhìn nhận thì các nhà khoa học pháp lý đã bàn đến hương ước nhưng phần lớn là so sánh mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật. Vấn đề “ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam” còn tương đối mờ nhạt.
Do đó việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang hoàn thiện pháp luật, sự xuất hiện “tái lập hương ước” là vấn đề rất cần thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp Đại học Luật của mình.
3. Mục đích đối tượng phạm vi nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục đích: Luận văn tập trung vào tìm hiểu sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam; ảnh hưởng đến làng xã và người nông dân Việt. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số ý kiến về việc kế thừa phát huy những mặt tích cực khắc phục những mặt hạn chế của hương ước còn ảnh hưởng đến xã hội ta hiện nay. Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội nông thôn, đồng thời nhằm tăng cường hiệu lực của pháp luật ở nông thôn trong điều kiện hiện nay.
3.2. Đối tượng: Luận văn nghiên cứu những yếu tố được phản ánh trong hương ước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với pháp luật.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Xét về bình diện không gian: Luận văn nghiên cứu hương ước ở làng xã châu thổ Bắc Bộ. Đây là các vùng được hình thành lâu đời và nó còn lưu giữ được nguồn tư liệu lớn hương ước.
Xét ở bình diện thời gian: Luận văn nghiên cứu hương ước trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 đồng thời cũng có xem xét ở chừng mực nhất định để so sánh với thời điểm hiện nay.
4. Nguồn tư liệu
Luận văn chủ yếu sử dụng bản hương ước đã được công bố trên các sách, tạp chí từ trước tới nay, đồng thời luận văn có sự kế thừa những thành tựu nghiên cứu về hương ước của các tác giả đã đi trước.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này, luận văn đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, các văn kiện của Đảng CSVN, các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, chủ yếu là để giải quyết những vấn đề đặt ra như phương pháp dân tộc học, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê.
6. Đóng góp của luận văn.
Đây là công trình đã hệ thống hoá được cơ bản các nguồn tài liệu, các quan điểm nghiên cứu có mối quan hệ đến giữa hương ước và pháp luật.
Bước đầu chỉ ra được những biểu hiện về ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Nhà nước phong kiến.
Đồng thời luận văn cũng đưa ra được một số những ý kiến đóng góp trong quá trình xây dựng quy ước làng văn hoá hiện nay.
7. Bố cục của đề tài.
Phù hợp với mục đích nội dung và phạm vi nghiên cứu luận văn được chia làm 3 chương, lời nói đầu và kết luận.
64 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2447 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật phong kiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hương ước là một nét văn hoá, là một hiện tượng pháp luật phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam. Hương ước xuất hiện từ thế kỷ XV và tồn tại dai dẳng trong suốt thời gian dài đến tháng 8/1945. Sau một thời gian gián đoạn, năm 1989, hương ước lại xuất hiện. Sự xuất hiện lại của hương ước là một vấn đề lý thú mà giới “Dân tộc học”, “pháp luật”... nghiên cứu.
Nghiên cứu hương ước có nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, nó giúp phần tìm hiểu làng xã người Việt ở Đồng bằng Trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hầu hết các làng Việt ở đây, trước Cách mạng tháng 8 đều có hương ước. Hương ước bao gồm các quy ước về nhiều mặt về đời sống của làng xã. Nó phản ánh quá trình hình thành, phát triển của làng xã người Việt. Trong các nguồn tài liệu thành văn về xã hội làng Việt cổ truyền, hương ước là nguồn tài liệu quan trọng để tìm hiểu làng Việt xưa. Hương ước thể hiện một cách chân phương bộ mặt xã hội cổ truyền của dân tộc; đồng thời nó là tư liệu gốc để nhận biết bức tranh văn hoá tổng hợp của làng văn hoá người Việt. Nhất là ngày nay, khi tầng lớp người hiểu biết về làng Việt trước Cách mạng tháng 8 đang ngày một cạn dần, thì hương ước mãi là một nguồn tư liệu quan trọng.
Thứ hai, nghiên cứu hương ước góp phần tìm hiểu văn hoá của tộc người Việt. Như vậy, vô hình chung, hương ước phản ánh rõ nét văn hoá dân tộc Việt. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, để phục vụ cho việc phát triển đất nước hiện nay thì việc nghiên cứu và xử lý văn hoá làng là rất quan trọng. Do đó, hương ước có giá trị như một tư liệu gốc.
Thứ ba, nghiên cứu hương ước, góp phần tìm hiểu lịch sử phong kiến Việt Nam qua các triều đại. Làng Việt là một đơn vị tụ cư, nó được hình thành rất sớm. Sau này đến thế kỷ VII (năm 622) cấp xã được thành lập. Trong chế độ lịch sử Phong kiến Việt Nam, làng xã luôn là nỗi trăn trở của triều đại. Hầu như các bước phát triển thăng trầm của Nhà nước Phong kiến đều được phản ánh rất nhiều trong hương ước. Mặt khác, hương ước ra đời do nhu cầu phát triển nội tại của các cộng đồng cư dân. Lúc đầu, Nhà nước Phong kiến nghi ngờ. Sau đó, Nhà nước Phong kiến lợi dụng hương ước bằng cách lồng tư tưởng Nho giáo vào trong cộng đồng làng xã. Vì vậy nghiên cứu hương ước giúp cho chúng ta hiểu được “nắm làng”, “quản lý làng xã” của Nhà nước Phong kiến.
Thứ tư, nghiên cứu hương ước còn góp phần chỉ ra những mặt hợp lý, tích cực của hương ước (đứng từ góc độ pháp luật) trong việc quản lý xã hội ở nông thôn, đồng thời còn chỉ ra được những mặt hạn chế, tiêu cực của hương ước trong việc quản lý xã hội ở nông thôn hiện nay, nhất là việc xây dựng ý thức pháp luật cho người nông dân và đặc biệt là xem xét, kết hợp giữa “luật” và “tục” trong xã hội nông thôn ngày nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Khi xem xét lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng ta cần phải đặt hương ước trong mối quan hệ với tổ chức làng xã người Việt; hương ước trong mối quan hệ với phong tục người Việt; hương ước trong quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật.
Ba vấn đề này, từ lâu đã được các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Các tác giả người Pháp, có lẽ là những người nghiên cứu về làng Việt tương đối nhiều. Nhưng khi nghiên cứu về làng Việt, họ chủ yếu đề cập đến phong tục, lệ tục của làng Việt cổ đại.
Người đặt viên gạch đầu tiên là Phan Kế Bính, với tác phẩm: “Việt Nam phong tục”. Trong tác phẩm này, Phan Kế Bính có dẫn một bản hương ước của làng Đề Kiều, xã Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về vấn đề “nghĩa thương”. Tiếp đó, Ngô Tất Tố có hai thiên phóng sự: “Tập án cái đình” và “việc làng”. Quảng Ninh và Vân Đình đã tố cáo chế độ cường hào, thực dân, qua các bản hương ước trong tác phẩm vấn đề dân cày; Vũ Văn Khiếu với “Đất lề quê thói”...
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Hồng Phong có viết: “Xã thôn Việt Nam”. Đây là một tác phẩm đầu tiên, giới thiệu hoàn vị về làng xã người Việt. Có thể nói người khám phá vai trò của hương ước một cách gợi mở nhất là Từ Chi (Trần Từ) trong tác phẩm “cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”. Tinh thần chủ yếu của tác phẩm này là nhìn hương ước như một cương lĩnh điều hoà các quan hệ xã hội trong làng Việt.
Sau đó hàng loạt những bài viết, những cuốn sách viết về hương ước như: Bùi Xuân Bính và Vũ Duy Mền trong bài: “hương ước – khoán ước trong làng xã người Việt” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/1982. Năm 1984 Bùi Xuân Bính lại viết: “lệ làng phép nước”. Trong thời kỳ này có lẽ đây là cuốn sách đầu tiên, bước đầu đã giới thiệu một cách tương đối có hệ thống. Từ nguồn gốc, điều kiện xuất hiện hương ước, nội dung cơ bản của hương ước, mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật nhà nước phong kiến, tác động tích cực, tiêu cực, đặt hương ước trong di sản của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị BCH Trung ương Đảng khoá VI năm 1986 (ban hành tháng 4/1988) về việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nhân dân, hộ gia đình, vị trí của làng xã đã được đề cao. Từ đó, nó phát sinh ra nhu cầu lật lại hương ước. Ban đầu nhu cầu này trỗi dậy mạnh mẽ ở tỉnh Hà Bắc.Cũng từ đó mà nó đẩy mạnh sự tìm tòi, nghiên cứu hương ước. Hàng loạt các tác phẩm nghiên cứu hương ước cũ đề ra hướng đi cho “hương ước mới” (ví dụ: xây dựng qui ước làng văn hoá mới ở Hà Bắc – do Sở văn hoá, thông tin tỉnh Hà Bắc xuất bản năm 1993). Rồi hàng loạt những bài trên tạp chí cùng với những cuốn sách, luận án về hương ước như: “hương ước lệ làng” của Lê Đức Tiếp – NXB chính trị quốc gia 1998, luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử mã số 50310: Một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ của Bùi Xuân Đính. Ở các tỉnh cũng “nở rộ” trong việc sưu tập hương ước như: Hà Tây, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Thái Bình, Hà Bắc, Hải Dương... nhất là năm 1999, đã có cuộc hội thảo quốc tế về luật tụng và sự phát triển của nó ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Tinh thần của hội thảo này đã được phản ánh rất rõ trong cuốn: “Luật tục và sự phát triển của nó trong xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay” (NXB chính trị Quốc gia năm 2000).
Nếu cắt ngang những công trình đã được nghiên cứu về hương ước, chúng ta có thể chia làm 4 nhóm như sau:
+ Nghiên cứu hương ước trong mối quan hệ với Phong tục và tổ chức làng xã: Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố, Trần Từ, Vũ Văn Khiếu, Phan Đại Doãn...
+ Các tác giả nghiên cứu hương ước làm đối tượng chính như Bùi Xuân Đính, và người đi đầu là Vũ Duy Mền...
+ Các tác giả sưu tầm và giới thiệu hương ước các tỉnh: Như hương ước tỉnh Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Bắc, Hải Dương...
+ Các tác giả nghiên cứu hương ước trong mối quan hệ với pháp luật: Đào Trí Úc, Nguyễn Đăng Dung, Hoàng Kim Quế, Lê Hồng Sơn, Hoàng Đình Thắng...
Như vậy, thành quả nghiên cứu về hương ước là rất lớn, nhất là từ thập kỷ 90 trở lại đây. Tuy nhiên nó còn mang nặng tính phong trào và họ trú trọng nhiều về phương diện “dân tộc học” nếu đứng từ góc độ pháp lý để nhìn nhận thì các nhà khoa học pháp lý đã bàn đến hương ước nhưng phần lớn là so sánh mối quan hệ giữa hương ước và pháp luật. Vấn đề “ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam” còn tương đối mờ nhạt.
Do đó việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang hoàn thiện pháp luật, sự xuất hiện “tái lập hương ước” là vấn đề rất cần thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp Đại học Luật của mình.
3. Mục đích đối tượng phạm vi nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục đích: Luận văn tập trung vào tìm hiểu sự ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Phong kiến Việt Nam; ảnh hưởng đến làng xã và người nông dân Việt. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số ý kiến về việc kế thừa phát huy những mặt tích cực khắc phục những mặt hạn chế của hương ước còn ảnh hưởng đến xã hội ta hiện nay. Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội nông thôn, đồng thời nhằm tăng cường hiệu lực của pháp luật ở nông thôn trong điều kiện hiện nay.
3.2. Đối tượng: Luận văn nghiên cứu những yếu tố được phản ánh trong hương ước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với pháp luật.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Xét về bình diện không gian: Luận văn nghiên cứu hương ước ở làng xã châu thổ Bắc Bộ. Đây là các vùng được hình thành lâu đời và nó còn lưu giữ được nguồn tư liệu lớn hương ước.
Xét ở bình diện thời gian: Luận văn nghiên cứu hương ước trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 đồng thời cũng có xem xét ở chừng mực nhất định để so sánh với thời điểm hiện nay.
4. Nguồn tư liệu
Luận văn chủ yếu sử dụng bản hương ước đã được công bố trên các sách, tạp chí từ trước tới nay, đồng thời luận văn có sự kế thừa những thành tựu nghiên cứu về hương ước của các tác giả đã đi trước.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này, luận văn đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, các văn kiện của Đảng CSVN, các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, chủ yếu là để giải quyết những vấn đề đặt ra như phương pháp dân tộc học, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê...
6. Đóng góp của luận văn.
Đây là công trình đã hệ thống hoá được cơ bản các nguồn tài liệu, các quan điểm nghiên cứu có mối quan hệ đến giữa hương ước và pháp luật.
Bước đầu chỉ ra được những biểu hiện về ảnh hưởng của hương ước đối với pháp luật Nhà nước phong kiến.
Đồng thời luận văn cũng đưa ra được một số những ý kiến đóng góp trong quá trình xây dựng quy ước làng văn hoá hiện nay.
7. Bố cục của đề tài.
Phù hợp với mục đích nội dung và phạm vi nghiên cứu luận văn được chia làm 3 chương, lời nói đầu và kết luận.
CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC VÀ ĐIỀU KIỆN XUẤT HIỆN HƯƠNG ƯỚC.
1.1. Nguồn gốc của hương ước.
Trước khi nghiên cứu về nguồn gốc và điều kiện xuất hiện của hương ước, chúng ta cần phải có quan niệm đúng đắn về thuật ngữ hương ước, khoán ước.
Mỗi người Việt Nam từ trong tiềm thức có lẽ ai cũng hiểu câu thành ngữ “phép vua thua lệ làng”. Lệ - là một từ Hán Việt; Làng là một từ Nôm dùng để chỉ một đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng nó chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất của người nông dân Việt. Trong các văn bản, để cho đơn giản, các nhà nghiên cứu thay vào đó chữ hương ước, khoán ước(22).
Như vậy, hương ước, khoán ước hiểu một cách nôm na là lệ làng. Nó là những quy ước liên quan đến mọi mặt đời sống của làng xã. Nó bao gồm cả những điều lệ được ghi chép thành văn bản và những điều lệ không được ghi chép thành văn bản mà được truyền khẩu trong dân gian.
Các làng Việt trong thời kỳ phong kiến gọi là lệ làng thành văn bằng nhiều tên gọi khác nhau, do tục lệ ở mỗi nơi nên có thể gọi là: hương ước, khoán lệ; khoán ước; hương lệ; cựu khoán... Nhưng do được gọi bằng tên gì đi nữa thì trong mỗi bản đó đều bao gồm những quy ước liên quan đến đời sống mọi mặt của từng làng mà từ trước đến nay, chúng ta vẫn hay gọi bằng hai từ phổ biến hơn là:Hương ước và khoán ước.
Khoán ước lần đầu tiên được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư vào cuối đời Trần, năm 1370.
Đến thế kỷ thứ XV, nhất là dưới thời vua Lê Thánh Tông, thuật ngữ khoán ước – quy ước của dân làng trở nên tương đối phổ biến. Khoán ước là một từ Hán gốc được du nhập vào Việt Nam và đã được Việt hoá. Khoán (bằng cứ); ước (quy ước), từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, thuật ngữ này dần được thu hẹp lại.
Cũng như khoán ước, hương ước cũng là một từ nguyên Hán được du nhập vào Việt Nam. Từ thế kỷ XV, hương ước bắt đầu xuất hiện trong làng xã người Việt nhưng nó chỉ thấp thoáng, chưa phổ biến. Đến thế kỷ XVII, hương ước ngày càng được phổ biến, và nhất là đến thế kỷ XX, hương ước trở thành một thuật ngữ quen thuộc rộng rãi trong làng xã. Sự lên ngôi của hương ước đã tự nó làm mờ nhạt đi khoán ước. Nhiều nơi không dùng thuật ngữ khoán ước. Hương ước là sản phẩm của làng, nó là những quy ước, những quy định được các thành viên trong làng xã cùng nhau tuân thủ, thực hiện. Hương ước có nội dung phong phú, tuỳ vào phong tục của từng làng. Nó quy định hầu hết các mặt hoạt động của làng xã người Việt như: Hội tư văn, tư võ, hội thiện, phe giáp, ngõ xóm cho đến cách tổ chức hoạt động của các thiết chế làng xã... Kể cả các hoạt động xã hội như hội hè, đình đám, lễ tế, khao vọng... và các hoạt động kinh tế. Đó là những quy ước chung của hương ước. Hương ước của từng làng xã của người Việt bên cạnh những quy ước chung lại có những nét riêng phù hợp với phong tục tập quán của mỗi làng xã.
Như đã khẳng định: Hương ước là sản phẩm của làng xã. Vì vậy, muốn hiểu được nguồn gốc và điều kiện xuất hiện hương ước nhất thiết phải nhận biết tối thiểu về làng xã.
Khi tìm hiểu về nông thôn Việt Nam chúng ta bắt gặp từ “Làng – xã” cùng với 2 từ này là “Thôn”. Tuy nhiên, khái niệm này cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
Làng – là một từ Nôm, là đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất, bởi nó có địa vực riêng, có cơ cấu tổ chức và tục lệ riêng, hoàn chỉnh và ổn định qua quá trình phát triển của lịch sử. Xã là từ Hán dùng để chỉ đơn vị hành chính cấp thấp nhất của nhà nước phong kiến ở các vùng nông thôn Việt. Trên vùng đồng bằng và Trung du Bắc Bộ thường thì mỗi làng là một xã “nhất xã, nhất thôn” (theo thống kê của các nhà dân tộc học Bùi Xuân Đính thì 74.18%) hoặc cùng có vài ba làng một xã. Mỗi một “làng” hợp thành xã gọi là “thôn”. Như vậy “thôn” thực chất là “làng. Một đơn vị tụ cư nhỏ nhất. Nhưng trong giao tiếp người Việt chủ yếu dùng “làng”. Từ làng làm cho người Việt cảm thấy gần gũi và cảm thông với nhau hơn. Còn thôn -được sử dụng trong giấy tờ mang nặng tính hành chính.
Trong quá trình hình thành và phát triển, làng Việt được phân chia như sau:
- Phân theo thời gian hình thành: Có các làng đầu công nguyên, các làng thời Lý - Trần, làng thời Lê sơ, Lê - Trịnh - Nguyễn; làng thời Nguyễn và cả những làng mới hình thành gần đây do những chính sách phát triển kinh tế- văn hoá của Nhà nước ta.
- Phân theo vùng địa lý: có các loại làng miền Bắc; các làng miền Trung; làng miền Nam; làng Trung du; làng đồng bằng; làng ven biển...
- Phân theo nghề nghiệp: có các làng thủ công; các loại làng nông nghiệp; làng chài; làng muối.
- Phân loại theo phương thức thành lập: có các loại làng do nhóm cư dân khai hoang tập thể hoặc nhà nước thực hiện chính sách khai hoang.
- Phân theo tôn giáo: ngoài các vùng làng Lương; chúng ta còn có làng Công giáo; làng theo đạo Cao Đài, Hoà Hảo.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX các công xã nông thôn bị “phong kiến hoá” rất sâu sắc. Nó đã biến làng Việt từ công xã nông thôn trở thành công xã nông thôn phong kiến hoá.
Do yêu cầu khách quan của cuộc sống cộng đồng, cần phải qui định mối quan hệ giữa các thành viên với nhau, và giữa các thành viên với các tổ chức cộng đồng. Những quy định này ban đầu rất sơ lược, đơn giản và dần nó phát triển thành tục lệ; tập quán truyền khẩu từ đời này sang đời khác. Nguồn gốc của hương ước vốn có từ tục lệ dân gian đó (lệ làng truyền khẩu).
Đi tìm cội nguồn của hương ước trước hết chúng ta phải dựa vào lời giải thích thông thường của người nông dân. Như chúng ta đã biết, hương ước được người nông dân gọi nôm na là lệ làng, mà lệ làng bao gồm cả những điều lệ được ghi chép vào những điều lệ không được ghi chép từ “bất thành văn” lên “thành văn”. Lần dở lại hương ước cổ, còn khá nhiều hương ước ghi lại những tập tục thề, hội thề của người Việt xưa. Ban đầu hội thề là hình thức sinh hoạt dân gian. Tục thề có từ thời xa xưa- công xã nguyên thuỷ.,
Tục thề vừa là hình thức vừa là biểu hiện sinh động của tục lệ dân gian. Nó đã trải qua quá trình biến đổi trong lịch sử phát triển xã hội người Việt. Có lẽ khi trình độ kinh tế, xã hội chưa phát triển nắm thì tục thề được duy trì chủ yếu từ đời này sang đời khác. Đó cũng là một tục lệ của làng xã Việt Nam. Lễ thề đầu tiên được ghi trong truyền thuyết giả sử là lễ thề truyền ngôi của vua Hùng thứ 18 cho An Dương Vương. Lễ thề sư trước khi xuất quân đi đánh giặc Đông Hán của Hai Bà Trưng. Vào đời Lý (1010 – 1225) và đời Trần (1220 -1400) đều ghi lại lễ thề trong chính sử. Năm 1416, trước sự xâm lược của quân Minh; Lê Lợi cùng 18 người bạn thân tín của mình làm lễ tuyên thệ, nguyện một lòng sống chết đuổi giặc. Lễ tuyên thệ là cơ sở cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn này. Sau chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã tổ chức hội thề Đông Quan, kết thúc chiến tranh, chấm dứt ách đô hộ hai mươi năm của giặc Minh trên đất nước ta.
Việc hương ước của khá nhiều làng cách đây chưa lâu, vẫn còn quy định nghi thức thề bồi.
Ví dụ:Tục uống khoán trong hương ước của làng Hạ Bằng (Thạch Thất – Hà Tây) quy định: “Ngày mồng 2 tháng giêng hàng năm có lệ uống khoán, uống máu ăn thề; thề không ăn gian nói dối không lấy cắp của nhau” (Hương ước của làng Hạ Bằng Thạch Thất – tài liệu do Vũ Duy Mền sưu tầm).
Hay hương ước làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu - Nghệ Tĩnh) cũng quy định: Mỗi năm vào ngày đầu xuân, cả làng tổ chức uống máu ăn thề “để tỏ cả làng đều là một lòng cùng nhaua cho nghiêm phép làng” (Quỳnh Đôi sự tích cổ kim hương biên, phòng tư liệu Viện sử học). Phép làng ở đây trước hết là sự đoàn kết giữ an ninh chung cho nội bộ làng cùng việc trả thù bảo vệ danh dự chung của cộng đồng. Điều này được thể hiện qua lời thề mà mỗi thành viên phải đọc trước “thần linh” trong lễ ăn thề: “Tôi là Nguyễn Văn Mỗ,... tuổi, ở làng Quỳnh Đôi; cùng với vợ con tôi trong làng, nếu có ăn trộm con gà con lợn, lúa má,vải lụa và tôm cá trong đầm hoặc làm gì không thuận với làng xóm thì đến khi chết xin không được đưa ma... tôi xin uống chén rượu này để thần linh soi xét”.(Quỳnh Đôi sự tích cổ kim hương biên, phòng tư liệu Viện sử học), hoặc: hàng năm, ngày tiệc của làng Dị Nậu (Tam Nông – Vĩnh phú) vào tháng 2 âm lịch hàng năm, tổ chức cuộc săn bắn tập thể lấy thịt thú về cúng Thành Hoàng. Làng lập ra “khoán ước văn báo”, quy định khi đuổi bắt thú dữ nếu ai bị thương thì được làng chạy chữa hoàn toàn cho đến khi lành lặn. Người nào chết, làng chịu ma chay chôn cất và con cháu người đó được cấp một đơn gọi là “đơn mua ngôi” (mua vị thứ ở làng) mà không phải trả tiền (36). Như vậy, hội thề là hình thức tục lệ cổ xưa từng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, trong tín ngưỡng nhằm củng cố cộng đồng làng xã người Việt. Hội thề là sản phẩm mang tính xã hội. Ở Việt Nam cư dân đã biết đến nghi thức đó và duy trì tục thề đến mãi sau này.
Nhìn chung, tục thề phong phú đa dạng; nó có thể tiến hành ở khắp nơi; với những hình thức từ “ấu trĩ” sơ khai nhất đến những nghi thức xa hoa tốn kém và phát triển thành “hội thề”. Trong dịp đó những người có mặt phải cùng nhau uống máu một con vật thường là (gà, ngựa, trâu) để làm vật hy sinh, hoà với rượu, trước thần linh, đọc thề mà nội dung tuỳ theo mục đích, tôn chỉ của tổ chức đó. Nhằm vào mục đích cố kết lòng người bảo vệ cộng đồng làng nước, đảm bảo danh dự, lòng tự trọng, niềm tin của con người. Vì lẽ đó ghi nhận sự cần thiết phải bảo lưu tục thề, lễ thề phải được tiến hành một cách nghiêm túc, trật tự, chặt chẽ và nó phải được qui định một cách cụ thể. Được coi như một tục lệ từ xa xưa truyền lại và được hội nhập cuộc sống của cộng đồng làng xã.
Do yêu cầu củng cố cộng đồng, do sự phát triển tăng dần từng bước của làng xã đòi hỏi tục thề cùng các hoạt động khác cần phải văn bản hoá. Tục thề sau này được ghi trong hương – khoán ước. Như vậy, chuyển tục thề truyền khẩu thành tục lệ tục thề được văn bản hoá là quá trình chuyển từ lệ làng chưa thành văn sang lệ làng thành văn; đây chính là căn cứ để nói lên rằng hương ước, khoán ước được bắt đầu từ tục thề dân gian (36).
Bên cạnh tục thề, hương ước còn bắt nguồn từ những tục lệ khác. Một tục lệ rất gần gũi với người Việt xưa đó là tục lệ thờ cúng (lệ hậu). Chúng ta biết tục lệ thờ cúng tổ tiên trong mọi gia đình, dòng họ cả nước đã có từ xưa của người Việt. Trong cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính – 1917 đã nhận xét: “Tục phụng sự tổ tiên của ta là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, cũng là nghĩa cử của người”. Như thế thờ cúng tổ tiên là thực hiện nếp sống đạo đức tâm linh. Một mặt nó biểu hiện quan niệm về tín ngưỡng cổ xưa của người Việt về cõi sống và cõi chết. Mặt khác tục thờ cúng của tổ tiên vừa tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên,