Là cửa ngõ nối thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, được kết nạp chính thức vào thành viên của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam từ năm 2000, lại nằm trong vành đai dãn nở công nghiệp và đô thị của trung tâm kinh tế lớn thành phố Hồ Chí Minh, Long An có lợi thế rất lớn trong cơ hội nâng cao năng lực sản xuất, trong thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, trong trao đổi buôn bán quốc tế và đặc biệt là sớm tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học trong sản xuất, trong quản lý.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với xuất phát điểm thấp hơn so với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp, đã làm hạn chế cơ hội thu hút đầu tư vào địa bàn tỉnh Long An.
76 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2378 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động đầu tư công đến tăng trưởng của tỉnh Long An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là cửa ngõ nối thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh vùng đồng
bằng sông Cửu Long, được kết nạp chính thức vào thành viên của
Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam ( KTTĐPN ) từ năm 2000, lại nằm
trong vành đai dãn nở công nghiệp và đô thị của trung tâm kinh tế lớn
thành phố Hồ Chí Minh, Long An có lợi thế rất lớn trong cơ hội nâng
cao năng lực sản xuất, trong thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước,
trong trao đổi buôn bán quốc tế và đặc biệt là việc sớm tiếp thu và ứng
dụng các thành tựu khoa học trong sản xuất, trong quản lý.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, với xuất phát điểm thấp hơn so với các Tỉnh trong
vùng KTTĐPN do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng phục
vụ phát triển công nghiệp, đã làm hạn chế cơ hội thu hút đầu tư vào địa
bàn Tỉnh Long An.
Với vị trí và những điều kiện thuận lợi sẵn có, để có thể phát
triển, hội nhập nhanh vào Vùng KTTĐPN thì vai trò của đầu tư công
trên địa bàn Tỉnh là một yếu tố quan trọng. Để tìm hiểu sự tác động của
đầu tư công với tăng trưởng kinh tế của Tỉnh trong thời gian qua, tôi đã
lựa chọn đề tài:
“Tác động Đầu tư công đến tăng trưởng của Tỉnh Long An”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu nhằm đánh giá tác động đầu tư công đến
tăng trưởng kinh tế của Long An trong thời gian qua. Từ đó, đưa ra các
giải pháp, khuyến nghị nhằm giúp lãnh đạo Tỉnh có chính sách đầu tư
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
2
hợp lý để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh cao và ổn định
trong dài hạn.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được thiết kế nghiên cứu theo các bước và quy trình như
sau:
- Bước 1: nghiên cứu các lý thuyết đầu tư công.
- Bước 2: từ các mô hình lý thuyết, chọn mô hình phù hợp để thiết
kế phân tích tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế.
- Bước 3: thu thập số liệu và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
qua mô hình hồi bội.
- Bước 4: sử dụng kết quả tính toán, kết luận vấn đề nghiên cứu và
minh chứng cho lý thuyết.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: tác động đầu tư của khu vực công đến
tăng trưởng kinh tế của Tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu: được thực hiện trên địa bàn Tỉnh Long An
trong giai đoạn 1987-2007
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Lý thuyết đầu tư
Đầu tư công
Thiết kế mô hình phân
tích các chỉ tiêu
Thu thập và xử lý số liệu
Kết quả và kết luận
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
3
- Góp phần đánh giá đúng tác động đầu tư công đến tăng trưởng
kinh tế trên địa bàn Tỉnh.
- Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị để thực hiện đầu tư công có
hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Tỉnh cao và bền
vững trong dài hạn.
- Có thể giúp cho lãnh đạo Tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch
định chính sách đầu tư và phân bổ vốn đầu tư công có hiệu quả hơn.
6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Đề tài được kết cấu thành 3 chương chính, bao gồm:
Chương 1: Tổng quan về lý thuyết đầu tư.
Chương 2: Đánh giá thực trạng đầu tư công đến tăng trưởng kinh
tế Tỉnh Long An.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công trên địa bàn
Tỉnh Long An.
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Đầu tư
Đầu tư là phần sản lượng được tích lũy nhằm để gia tăng năng lực
sản xuất tương lai của nền kinh tế (Sach-Larrain 1993). Sản lượng ở
đây có thể do nền kinh tế tự sản xuất hay là do nhập khẩu từ bên ngoài,
có thể là các sản phẩm hữu hình như máy móc, thiết bị,…hay là các sản
phẩm vô hình như bằng phát minh, sáng chế…Cũng có định nghĩa đầu
tư là hoạt động bỏ vốn ở hiện tại nhằm mục đích sinh lời ở tương lai.
Vốn ở đây có thề là tiền, là tài sản, là sức lao động, là trí tuệ. Quá trình
tích lũy vốn đến đầu tư được thể hiện qua ba khâu: tiết kiệm, huy động
tiết kiệm vào hệ thống tài chính và cuối cùng là đầu tư.
Vốn (hay tư bản) trong nền kinh tế tại một thời điểm nào đó được
định nghĩa là bằng giá trị tổng các đầu tư qua các năm, tính đến thời
điểm đó. Trong thực tế, để tính toán giá trị vốn tại một thời điểm nào
đó người ta cộng tất cả các đầu tư trước đó rồi trừ đi khấu hao hàng
năm. Một cách khác để tính giá trị vốn của nền kinh tế tại một thời
điểm nào đó là người ta căn cứ vào giá cả thị trường hiện tại của các tài
sản vốn này.
Theo các nhà kinh tế thì chi cho giáo dục cũng là một dạng của
đầu tư-đầu tư vốn con người. Đầu tư cho giáo dục cũng nhằm làm tăng
năng lực sản xuất tương lai của nền kinh tế vì con người được trang bị
kiến thức tốt hơn thì sẽ làm việc hiệu quả hơn, năng suất sẽ cao hơn.
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
5
1.1.2. Nguồn vốn đầu tư
Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế thì nguồn vốn đầu tư bao gồm
hai loại sau: nguồn trong nước tiết kiệm được và nguồn từ nước ngoài
đưa vào. Nguồn từ nước ngoài đưa vào có thể dưới dạng: đầu tư trực
tiếp, đầu tư gián tiếp, các khoản vay nợ và viện trợ, tiền kiều hối và thu
nhập do nhân tố từ nước ngoài chuyển về. Có thể chia vốn đầu tư làm 2
loại là đầu tư của khu vực doanh nghiệp và cá nhân (khu vực tư) và đầu
tư của khu vực nhà nước (khu vực công).
- Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư: trên lý thuyết thì nguồn đầu
tư của khu vực tư (Ip) được hình thành từ tiết kiệm của khu vực doanh
nghiệp và của cá nhân (Sp) và luồng vốn của nước ngoài đổ vào khu
vực này (Fp):
Ip = Sp + Fp
Sp = Ypd – Cp
Trong đó: Ypd là thu nhập khả dụng;
Cp là tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình
Nguồn tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và cá nhân thường là
nguồn chủ yếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn của nước ngoài đổ vào
khu vực tư thường ở các dạng như đầu tư trực tiếp (FDI) và các khoản
nợ.
- Nguồn vốn đầu tư của khu vực công: nguồn đầu tư của nhà
nước (Ig) được xác định theo công thức sau:
Ig = (T – Cg) + Fg.
Trong đó: T là các khoản thu của khu vực nhà nước;
Cg là các khoản chi tiêu của khu vực nhà nước không
kể chi đầu tư. Chênh lệch giữa khoản thu và chi này là tiết kiệm của
khu vực nhà nước;
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
6
Fg là các khoản viện trợ và vay nợ từ nước ngoài vào
khu vực nhà nước.
Dựa vào đẳng thức trên, ta thấy đầu tư của khu vực nhà nước được
tài trợ bởi ba nguồn:
Thứ nhất là khả năng huy động vốn của khu vực nhà nước từ khu
vực doanh nghiệp và cá nhân hoặc các tổ chức tài chính trung gian.
Hình thức huy động này được thực hiện bằng việc phát hành trái phiếu,
kỳ phiếu của nhà nước.
Thứ hai là tiết kiệm của khu vực nhà nước, bằng các khoản thu về
ngân sách nhà nước trừ cho các khoản chi thường xuyên. Trong trường
hợp các nước kém phát triển thì khoản tiết kiệm này rất khiêm tốn,
không đủ đáp ứng nguồn vốn đầu tư lớn cho phát triển, nhất là vào lĩnh
vực kết cấu hạ tầng.
Thứ ba là nguồn vốn giúp đỡ từ nước ngoài. Nguồn này có vai trò
khá quan trọng đối với các nước kém phát triển. Các nguồn từ nước
ngoài thường dưới dạng viện trợ hoặc nợ.
1.1.3. Đối tượng đầu tư
Trong một nền kinh tế, tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức và vì
vậy cũng có nhiều loại đầu tư. Có 3 loại đầu tư chính sau:
- Đầu tư vào tài sản cố định: là đầu tư vào nhà, xưởng, máy móc,
thiết bị, phương tiện vận tải…Đầu tư dưới dạng này chính là đầu tư
nâng cao năng lực sản xuất. Khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào đầu tư loại này.
- Đầu tư vào tài sản lưu động: tài sản lưu động là những nguyên
vật liệu thô, bán thành phẩm được sử dụng hết sau mỗi quá trình sản
xuất. Ngoài ra, tài sản lưu động cũng có thể là thành phẩm được đơn vị
đó sản xuất ra mà chưa đem đi tiêu thụ hết. Như vậy, lượng đầu tư vào
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
7
loại tài sản này chính là sự thay đổi về khối lượng của các hàng hoá này
trong một thời gian nhất định. Và khi họ đầu tư vào loại tài sản này,
đơn vị sản xuất, kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất bằng cách:
(1) đầu tiên để tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý, giao tiếp và phân
phối; (2) đồng thời nhằm đảm bảo vật tư sản xuất luôn có sẵn khi cần.
Xét trên tổng thể nền kinh tế thì có một dạng đầu tư vào các tài
sản cố định rất quan trọng, đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phần lớn
lượng đầu tư vào cơ sở hạ tầng do nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế nhiều thành phần thì khu vực tư nhân và khu vực
nước ngoài cũng tham gia đầu tư, kinh doanh cơ sở hạ tầng bằng các
hình thức thích hợp (ví dụ như BOT, BTO, BT,...). Đặc điểm của đầu
tư vào các loại hàng hoá công là nhu cầu vốn lớn, lâu thu hồi vốn nên
thường do nhà nước đảm trách. Tuy nhiên, đầu tư vào kết cấu hạ tầng
có tác động thúc đẩy đầu tư của các thành phần kinh tế khác phát triển.
1.1.4. Các lý thuyết về đầu tư công
1.1.4.1. Quan điểm của trường phái tân cổ điển
Quan điểm của trường phái này cho rằng nhà nước không nên
can thiệp vào nền kinh tế trong quá trình phân bổ nguồn lực như vốn và
lao động…mà sự vận động của thị trường sẽ thực hiện tốt hơn vai trò
này. Trường phái này khẳng định là một trong các ưu điểm kinh tế thị
trường đó là sự phân bổ nguồn lực một cách tự động hay qua bàn tay
vô hình của thị trường. Đầu tư là một hình thức phân bổ nguồn lực
trong các hình thức đó - phân bổ vốn trong nền kinh tế.
Theo lý thuyết này, các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế trong
quá trình tìm đến điểm tối đa hoá lợi nhuận sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư
tốt nhất cho chính mình, và như vậy nhà nước không cần can thiệp để
tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý cho doanh nghiệp vì bản thân doanh
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
8
nghiệp biết rõ hơn ai hết là cần phải làm gì để đạt lợi ích tốt nhất cho
chính doanh nghiệp. Cộng tất cả các đơn vị sản xuất này trong nền kinh
tế sẽ hình thành một cơ cấu đầu tư của một nền kinh tế và theo lập luận
trên, và cơ cấu đó là hợp lý. Vai trò của nhà nước trong trường hợp
này chỉ dừng lại ở mức là cung cấp các hàng hoá công cộng cần thiết
cho nền kinh tế như kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội
mà nếu để thị trường tự vận động thì không thể đáp ứng được. Giả định
của trường phái tân cổ điển là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đây là
thị trường mà người bán và người mua có khả năng kiểm soát giá vá họ
có đầy đủ thông tin về thị trường không những trong hiện tại mà cả ở
tương lai.
1.1.4.2. Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của nhà nước
Quan điểm này cho rằng do sự không hoàn hảo của thị trường,
nhất là các nước đang phát triển, nên sự tự thân vận động của thị trường
sẽ không mang lại kết quả tối ưu. Thông tin không hoàn hảo có thể sẽ
dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức. Trong trường hợp này, nhà nước
phải là người tổ chức cung cấp thông tin tốt để thị trường hoạt động tốt
hơn. Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, nền kinh tế còn lạc
hậu, phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, nếu để thị trường tự thân vận
động thì sẽ không thể tạo ra sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ được
mà chuyển dịch cơ cấu là nội dung của tiến trình công nghiệp hoá , Nhà
nước cần phải tạo ra sự khởi động ban đầu để các thành phần kinh tế
phát triển, tránh những rủi ro, mất cân đối trong nền kinh tế, và sự can
thiệp của nhà nước, nhất là trong việc phân bổ các nguồn lực trong nền
kinh tế là rất cần thiết.
1.1.4.3. Quan điểm về sự phát triển cân đối hay không cân đối
- Thuyết tăng trưởng cân đối
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
9
Theo Rosenstain - Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được
đưa ra nhằm mô tả sự tăng trưởng cân đối giữa các ngành trong nền
kinh tế. Ông đề xuất đầu tư nên hướng cùng lúc vào nhiều ngành để
tăng cung cũng như cầu cho nhiều sản phẩm bằng cách tăng thu nhập
của lao động trong những ngành này. Sự phát triển của các ngành công
nghiệp chế biến đòi hỏi lượng đầu tư lớn trong một thời gian dài. Từ đó
phát sinh nhu cầu phát triển song song cả hàng hoá phục vụ sản xuất
lẫn phục vụ tiêu dùng. Ý tưởng về “cú huých” lập luận rằng, một sự gia
tăng đột ngột về đầu tư có thể làm cho mức tiết kiệm tăng lên bởi vì sự
gia tăng đột ngột của thu nhập. “Cú huých” này biểu hiện thông qua các
hoạt động của chính phủ và mục tiêu của viện trợ nước ngoài. Cũng
theo Rosenstain-Rodan, mục đích của viện trợ nước ngoài cho các nước
kém phát triển là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đến một điểm
mà ở đó tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn có thể đạt được trên
nền tảng tự duy trì, không phụ thuộc vào các nguồn tài trợ bên ngoài.
- Thuyết tăng trưởng không cân đối
Hirchman (1958) đưa ra một mô hình trái ngược với thuyết tăng
trưởng cân đối, ông cho rằng sự mất cân đối giữa cung và cầu tạo ra
động lực cho nhiều dự án mới. Theo đó, cách tiếp cận này yêu cầu phần
lớn vốn đầu tư được phân phối bởi nhà nước cho những ngành công
nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra những cơ hội ở những ngành khác
trong nền kinh tế, từ đó khuyến khích làn sóng đầu tư thứ hai. Những
ngành được chọn ra để đầu tư nên được đánh giá theo mối liên hệ giữa
ngành đó với các ngành liên quan theo “chuỗi giá trị”, điều này nói đến
khả năng tạo ra những ngành mới làm đầu ra hay cung cấp đầu vào cho
những ngành được chọn để đầu tư.
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
10
Hirchman chấp nhận có sự can thiệp của nhà nước nhưng ông
cho rằng ý tưởng “cú huých” là không khả thi mà thay vào đó, sự phát
triển tốt nhất là được tạo ra từ những mất cân đối như thế. Do nguồn
vốn có hạn, chính phủ không thể bảo đảm đầu tư một cách rải đều cho
tất cả các ngành khác để đảm bảo phát triển ngành này cũng là tạo điều
kiện để ngành khác phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển
đổi, nhiều định chế của cơ chế thị trường chưa hình thành hoàn chỉnh
nên các điều kiện của thị trường cạnh tranh hoàn hảo chưa thể đáp ứng
được. Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang ở trình độ rất thấp, chủ yếu là
nền kinh tế nông nghiệp, trình độ cư dân thấp…đòi hỏi phải có vai trò
chủ động của nhà nước trong việc định hướng phát triển các ngành
kinh tế, nhà nước phải tạo những tiền đề nhất định như hạ tầng kỹ
thuật, nguồn nhân lực…để thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.2. Mối tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế
1.2.1. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có nghĩa là gia tăng tổng sản lượng quốc gia
trong một thời kỳ nhất định. Sản lượng được tạo ra từ sản xuất, như
vậy, nguồn gốc của tăng trưởng xuất phát từ quá trình sản xuất. Quá
trình sản xuất là quá trình mà trong đó các yếu tố đầu vào được phối
hợp theo những cách thức tốt nhất để tạo ra khối lượng sản phẩm. Nếu
xét ở góc độ phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì việc tạo ra tổng sản lượng
quốc gia sẽ có quan hệ phụ thuộc vào các nguồn lực đầu vào của quốc
gia. Một sự thay đổi tổng sản lượng quốc gia khi có sự thay đổi các
nguồn lực đầu vào.
Các lý thuyết tăng trưởng ra đời phân tích nguồn gốc của tăng
trưởng với nhiều quan điểm khác nhau, mỗi lý thuyết đầu có sự khám
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
11
phá mới, nhưng trên căn bản vẫn là phân tích mối quan hệ đầu ra với
đầu vào.
Mối quan hệ đầu ra (GDP, GNP) với đầu vào được khái quát qua
hàm sản xuất :
Y = F(Xi) với i = 1, 2,….,n
Xi là yếu tố đầu vào
Hầu hết các nhà kinh tế học thống nhất các yếu tố đầu vào cơ bản
của nền kinh tế, bao gồm: (1) Vốn sản xuất là yếu tố tham gia trực tiếp
vào quá trình sản xuất để tạo ra tổng sản lượng quốc gia (2) Lao động
là yếu tố sản xuất đặc biệt có ảnh hưởng quan trọng đến gia tăng sản
lượng quốc gia (3) đất đai nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên khác
là tư liệu sản xuất góp phần làm gia tăng sản lượng quốc gia (4) Công
nghệ là đầu vào quan trọng làm thay đổi phương pháp sản xuất, tăng
năng suất lao động, tăng sản lượng quốc gia.
Như vậy hàm sản xuất tổng hợp được thể hiện:
Y = F(K, L, R, T)
Hàm sản xuất cho thấy tăng trưởng tổng sản lượng phụ thuộc vào
quy mô, chất lượng của các yếu tố đầu vào K, L, R, T và cách thức phối
hợp chúng. Mỗi yếu tố giữ một vai trò nhất định và có tác động qua lại
lẫn nhau, tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, có thể yếu tố nào đó
được đề cao hơn yếu tố khác nhưng không có nghĩa là phụ thuộc duy
nhất vào một yếu tố.
Ngoài các yếu tố trên, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào
những yếu tố phi kinh tế khác như: thể chế kinh tế chính trị, đặc điểm
về văn hoá-xã hội, tôn giáo…
1.2.2. Một số mô hình phân tích nguồn gốc tăng trưởng kinh tế
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
12
Trong quá trình phát triển của kinh tế học, nguồn gốc của tăng
trưởng được giải thích khác nhau bởi các nhà kinh tế học, có một số mô
hình chủ yếu được phổ biến như sau:
- Mô hình Ricardo (David Ricardo, 1772-1832): cho rằng đất đai
sản xuất nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Ông cho
rằng giới hạn của đất làm cho lợi nhuận của người sản xuất có xu
hướng giảm do chi phí sản xuất lương thực thực phẩm cao, giá hàng
hoá tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và giới hạn của đất cũng làm cho
năng suất lao động nông nghiệp thấp, xuất hiện thừa lao động trong
nông nghiệp do đó hiệu suất sử dụng lao động thấp làm ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế.
- Trường phái Tân Cổ điển: cho rằng dưới tác động của khoa học
và công nghệ, chất lượng ruộng đất không ngừng nâng cao vì vậy ngay
từ đầu phải nâng cao năng suất lao động nhằm giảm áp lực tăng giá
nông sản đồng thời đầu tư cho cả công nghiệp phát triển theo chiều sâu
nhằm giảm áp lực cầu lao động.
- Mô hình hai khu vực, được giải thích bởi Lewis (1995) và
Oshima:
Lewis cho rằng, đối với khu vực nông nghiệp do đất đai ngày càng
hiếm trong khi lao động ngày càng tăng, sẽ có tình trạng dư thừa lao
động, hệ quả là sản phẩm biên của lao động nông nghiệp bằng không,
mức tiền lương ở mức tối thiểu. Đối với khu vực công nghiệp, do tiền
lương của khu vực này cao hơn khu vực nông nghiệp nên có thể thu hút
lao động dư thừa của khu vực nông nghiệp, quá trình này diễn ra đến
khi thu hút hết lao động dư thừa. Đến một lúc nào đó, lợi nhuận khu
vực công nghiệp giảm, bắt buộc nhà tư bản công nghiệp sẽ lựa chọn
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
13
yếu tố khác thay thế lao động (công nghệ thâm dụng vốn), quá trình
tăng trưởng sẽ tiếp tục.
- Mô hình Harry T. Oshima: cho rằng trong giai đoạn 1 nên đầu
tư cho nông nghiệp phát triển theo chiều rộng nhằm đa dạng hoá sản
xuất thu hút lao động nông nghiệp không cần chuyển lao động thừa qua
công nghiệp. Giai đoạn 2 đồng thời đầu tư phát triển theo chiều rộng
các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Giai đoạn 3 phát triển
các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm nhu cầu lao động.
- Mô hình Harrod – Domar: cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế chính là lượng vốn sản xuất tăng thêm có được từ đầu tư và tiết
kiệm của quốc gia. Mô hình này đưa ra mối quan hệ hàm giữa vốn (ký
hiệu là K) và tăng trưởng sản lượng (ký hiệu là Y) và cho rằng sản
lượng của bất kỳ một thực thể kinh tế nào - cho dù đó là một doanh
nghiệp, một ngành kinh tế, hay của toàn bộ nền kinh tế đều phụ thuộc
vào số lượng vốn đã đầu tư vào thực thể kinh tế đó, được biểu diễn
dưới dạng hàm:
Y = K/k
Trong đó k là hằng số, được gọi là hệ số vốn sản lượng. Chuyển
sang tốc độ tăng, ta có:
+Y = +K/k
Chia cả 2 vế của đẳng thức trên cho Y, ta có:
+Y/Y = (+K/Y).1/k
+Y/Y chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế, +K/Y là tỷ lệ đầu
tư/GDP. Điều này có nghĩa là để đạt được tốc độ tăng trưởng nào đó thì
nền kinh tế phải đầu tư theo một tỷ lệ nhất định nào đó trên GDP.
Luận văn Thạc sĩ – Cao học K15
SVTH: Ngô Lý Hoá GVHD: PGS TS Sử Đình Thành
14
Khi chuyển sang tốc độ tăng thì hệ số k gọi là hệ số ICOR
(incrementa