Ngôn ngữ tiếng Việt vốn là phương tiện giao tiếp của con người, nó được hình
thành và tồn tại trên cơ sở vững chắc trong kho tàng văn học, nhưng trong toànbộ hệ
thống ngôn ngữ thì thành ngữ luôn giữ vai trò quan trọng, là một kho tàng tri thức vô
cùng quý báu của nhân dân. Cũng như trong ca dao, dân ca, tục ngữ, thì thành ng ữ là
tiếng nói quen thuộc gần gũi nhất, nó được đúc kết từ kinh nghiệm cuộc sống,từ triết
lý nhân sinh quan và thế giới quan. Với hình thức cấu tạo ngắn gọn không trau chuốt,
nhìn vào ta sẽ thấy dễ đọc dễ nhớ. Vì thế, việc sử dụng thành ngữ trong giao tiếp cũng
như trong sáng tạo nghệ thuật văn học, sẽ làm cho lời nói giàu bản sắc đậmtính dân
tộc. Với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh” thì chúng ta sẽ thấy rõ
hơn biệt tài sử dụng lớp thành ngữ của tác giả rất Nam Bộ, lấy từ chất liệu ngôn ngữ
dân gian trong cuộc sống mà nên, đọc vào ta sẽ có cảm giác rất gần gũi đến không
ngờ. Đến với đề tài người nghiên cứu thấu hiểu được tâm tư tình cảm của Hồ Biểu
Chánh qua một số tác phẩm tiêu biểu, trong trang viết của ông xuất hiện rất nhiều
những nhân vật, mà đặc biệt là người nông dân Nam Bộ sống ở miền sông nước Hậu
Giang trải dàitrên các vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thực lòng mà nói tôi chưa bao giờ thích tìm hiểu về Hồ Biểu Chánh ngay cả
chính tác phẩm tôi cũng không thèm đọc, bởi do vô tình mà tôi đọc được tác phẩm của
ông và tìm hiểu sâu thêm trong quá trình học, và khi đọc được bài viết của Giáo sư
Nguyễn Văn Trung khi viết về Hồ biểu Chánh đã tâm sự thế này: “Dạy văn trên 20
năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây gì trước đây khinh chê
không thèm đọc” [17;6]. Sau khi đọc xong Giáo Sư Trung nhận thấy tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn, một người lớn tuổi của ông đã thú
nhận với ông: “Chả nhẽ, tôi trên 60 tuổi rồi mà còn nói bị xúc động như muốn rơi
nước mắt”[17;6]. Chính vì lời lẽ tha thiết đó làm cho tôi có một cách nhìn khác ở Hồ
Biểu Chánh so với các nhà văn đương thời, nói một cách cụ thể tác phẩm của ông giúp
tôi rất nhiềutrong th ời gian học, cùng vốn từ ngữ phong phú đó càng làm tôi cảm thấy
mình thật nhỏ bé. Với cách diễn đạt thật sâu xa gợicho tôi nhiều cảm tưởng mới mẽ,
từ đó rút ra bài học là phải tự mình nghiên cứu thể nghiệm và trải qua suy luận tưởng
tượng, m ới có được những gì mà mình cần đạt. Đó cũng là lý do để người viết chọn đề
tài này đ ểhòan thành tốt bài luận văn.
8
Qua lớp thành ngữ trong tác phẩm ta sẽ thấy được điều kỳ diệu và sự tinh tế của
tư duy dân tộc và quan điểm thẩm mĩ của cha ông ta đã được tác giả thu gom lại, và có
sự sáng tạo độc đáo trong cách dùng từ. Tôi càng khẳng định rằng cuộc đời ông luôn
gắn liền trong các tác phẩm, mượn hình ảnh nhân vật để nói lên nỗi thống khổ của
cuộc đời mình, và xúc động thay khi phải đọc những trang cuộc đời thật quá bất công
của những con người nghèo, tôi mường tượng như chính cuộc đời mình có trong đó.
Từ tác phẩm tôi muốn tự rèn luy ện bản thân mình có được bước đivững vàng trong
cuộc đời hơn.
Với câu triết lý sâu sắc nhất của nhà văn Trung Quốc đã nói: “Thế hệ chúng ta
thật đáng buồn, đáng tội, tất cả những lời hay tiếng đẹp đã được tiền nhân sử dụng cả.
Ta sinh ra quá muộn ư? Hay là vì không sáng tạo được cái đẹp? Câu triết lý này quả
rất đúng. Vì thế hệ chúng ta hôm nay chỉ là sao chép và dựa vào cái sáng tạo có sẵn,
mà từ đó có cách nhìn m ới để vun bồi cho nghệ thuật sáng tạo văn học. Chính vì điều
này mà người nghiên cứu thuộc thế hệ hôm nay, với những câu nói lời văn ít nhiều
cũng có ảnh hưởng và mang dáng dấpcủa các bậc tiền nhân đi trước. Vì lẽ đó mà tôi
chủ động tìm đến đề tài với mục đích là phải tích lũy thêm từ cái cũ mà mở rộng được
những cái mới cho riêng mình.
113 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3869 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
(µ)
LÊ THỊ NHÂN
THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU CHÁNH
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: BÙI THỊ TÂM
Cần Thơ, 5/ 2009
2
LỜI CẢM ƠN!
Tôi xin chân thành biết ơn quý Thầy Cô thuộc Bộ môn Ngữ Văn, đã tận tình
giảng dạy tôi trong suốt thời gian học tập và rèn luyện ở Trường Đại học Cần Thơ.
Đặc biệt là giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành đề tài
luận văn tốt nghiệp. Dù có cố gắng để hòan thành bài viết, nhưng bản thân tôi tự thấy
khả năng mình còn vụn vặt trong cách dùng từ cũng như về dung lượng chữ viết. Bởi
do sự trang bị về mặt kiến thức còn non yếu, dù biết rằng trong cách trình bày sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót cần thiết, nhưng có điều sự việc trên thế gian này
không có gì là viên mãn mười phân vẹn mười, đã có tròn tất có khuyết, có đầy tất có
vơi, đã có dài tất có ngắn. Tôi rất tiếc gì không có điều kiện để đi sâu hơn vào những
tư liệu quý giá này, nếu có thời gian chắc chắn tôi sẽ tìm ra được nhiều vấn đề nữa hết
sức lý thú! Đó cũng là mặt hạn chế đáng tiếc xảy ra cho người viết.
Từ đề tài nghiên cứu này rất mong quý Thầy cô tận tình dạy bảo và giúp em có
cách nhìn nhận đúng đắn, để vận dụng phương pháp được tốt hơn trong cách viết cũng
như trong cách dùng vốn ngôn ngữ tiếng Việt, để đáp lại tấm lòng ưu ái của quý Thầy
cô em sẽ cố gắng học hỏi, nghiên cứu và khắc phục những mặt hạn chế của mình.
Cần Thơ, ngày 04 tháng 05 năm 2009
Người viết
(Đã ký)
Lê Thị Nhân
3
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU Số trang
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………...2
3. Mục đích yêu cầu…………………………………………………………..6
4. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………...7
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÀNH NGỮ
1.1. Khái niệm về thành ngữ……………………………………………………9
1.2. Cấu tạo của thành ngữ……………………………………………………...11
1.2.1. So Sánh…………………………………………………………………...11
1.2.2. Phép đối…………………………………………………………………..12
1.2.3. Phép điệp………………………………………………………………….13
1.3. Đặc điểm của thành ngữ…………………………………………………….15
1.3.1. Tính biểu trưng…………………………………………………………....15
1.3.2. Tính dân tộc và tính cụ thể………………………………………………..16
1.3.3. Tính biểu thái……………………………………………………………..18
1.3.4. Tính hình tượng…………………………………………………………...18
1.3.5. Tính điệp và đối…………………………………………………………...19
1.4.Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ và tục ngữ…………………….-
1.4.1. Phân loại thành ngữ……………………………………………………….-
1.4.1.1. Dựa vào cấu trúc………………………………………………………...-
1.4.1.1.1. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm từ………………………………....-
1.4.1.1.2. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm chủ vị…………………………….19
1.4.1.2. Dựa vào nguồn gốc……………………………………………………...20
1.4.1.2.1. Thành ngữ Thuần Việt………………………………………………..-
1.4.1.2.2. Thành ngữ Hán Việt…………………………………………………..-
1.4.1.3. Dựa vào tính biểu trưng…………………………………………………-
1.4.1.3.1. Thành ngữ có tính biểu trưng thấp……………………………………-
1.4.1.3.2. Thành ngữ có tính biểu trưng cao…………………………………….20
4
1.4.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ…………………………………………...21
1.4.2.1.Những nét giống nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ………………22
1.4.2.2. Những nét khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ……………….-
1.4.2.2.1.Về mặt ý nghĩa………………………………………………………...22
1.4.2.2.2. Về mặt ngữ pháp……………………………………………………...23
1.4.2.2.3. Về mặt chức năng……………………………………………………..23
1.5. Ý nghĩa của thành ngữ………………………………………………………25
CHƯƠNG 2: THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU CHÁNH
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh………………………27
2.1.1. Cuộc đời………………………………………………………………….28
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác……………………………………………………….29
2.2. Phân loại thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh……………………....30
2.2.1. Thành ngữ có kết cấu là một cụm từ……………………………………..31
2.2.2. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm chủ vị………………………………..33
2.2.3. Thành ngữ Thuần Việt…………………………………………………...35
2.2.4. Thành ngữ Hán Việt……………………………………………………...39
2.2.5. Thành ngữ có tính biểu trưng…………………………………………….43
2.2.6. Thành ngữ có tính dân tộc và tính cụ thể…………………………………45
2.2.7. Thành ngữ có tính biểu thái………………………………………………49
2.2.8. Thành ngữ tính hình tượng………………………………………………50
2.2.9. Thành ngữ có tính điệp và đối………………………………………...…..51
2.3. Mục đích sử dụng thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh……………...56
2.3.1. Thành ngữ miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm…………………………...57
2.3.2. Thành ngữ miêu tả nhân vật trong tác phẩm……………………………...60
2.3.2.1. Thành ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật………………………………...61
2.3.2.2. Thành ngữ miêu tâm lí tính cách hình nhân vật………………………...65
2.3.2.3. Thành ngữ miêu tả hàng động hoạt động nhân vật……………………..69
CHƯƠNG 3: NHỮNG SÁNG TẠO CỦA HỒ BIÊU CHÁNH TRONG VIỆC SỬ
DỤNG THÀNH NGỮ Ở MỘT SỐ TÁC PHẨM
3.1. Sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên mẫu……………………………………76
3.2. Sử dụng thành ngữ ở dạng sáng tạo………………………………………...82
3.2.1. Thành ngữ dùng ở dạng mượn ý………………………………………….83
5
3.2.2. Thành ngữ dùng ở dạng tách đôi………………………………………….85
3.2.3.Thành ngữ dùng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân………….87
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
PHẦN MỞ ĐẦU
7
1. Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ tiếng Việt vốn là phương tiện giao tiếp của con người, nó được hình
thành và tồn tại trên cơ sở vững chắc trong kho tàng văn học, nhưng trong toàn bộ hệ
thống ngôn ngữ thì thành ngữ luôn giữ vai trò quan trọng, là một kho tàng tri thức vô
cùng quý báu của nhân dân. Cũng như trong ca dao, dân ca, tục ngữ,…thì thành ngữ là
tiếng nói quen thuộc gần gũi nhất, nó được đúc kết từ kinh nghiệm cuộc sống, từ triết
lý nhân sinh quan và thế giới quan. Với hình thức cấu tạo ngắn gọn không trau chuốt,
nhìn vào ta sẽ thấy dễ đọc dễ nhớ. Vì thế, việc sử dụng thành ngữ trong giao tiếp cũng
như trong sáng tạo nghệ thuật văn học, sẽ làm cho lời nói giàu bản sắc đậm tính dân
tộc. Với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh” thì chúng ta sẽ thấy rõ
hơn biệt tài sử dụng lớp thành ngữ của tác giả rất Nam Bộ, lấy từ chất liệu ngôn ngữ
dân gian trong cuộc sống mà nên, đọc vào ta sẽ có cảm giác rất gần gũi đến không
ngờ. Đến với đề tài người nghiên cứu thấu hiểu được tâm tư tình cảm của Hồ Biểu
Chánh qua một số tác phẩm tiêu biểu, trong trang viết của ông xuất hiện rất nhiều
những nhân vật, mà đặc biệt là người nông dân Nam Bộ sống ở miền sông nước Hậu
Giang trải dài trên các vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thực lòng mà nói tôi chưa bao giờ thích tìm hiểu về Hồ Biểu Chánh ngay cả
chính tác phẩm tôi cũng không thèm đọc, bởi do vô tình mà tôi đọc được tác phẩm của
ông và tìm hiểu sâu thêm trong quá trình học, và khi đọc được bài viết của Giáo sư
Nguyễn Văn Trung khi viết về Hồ biểu Chánh đã tâm sự thế này: “Dạy văn trên 20
năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây gì trước đây khinh chê
không thèm đọc” [17;6]. Sau khi đọc xong Giáo Sư Trung nhận thấy tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn, một người lớn tuổi của ông đã thú
nhận với ông: “Chả nhẽ, tôi trên 60 tuổi rồi mà còn nói bị xúc động như muốn rơi
nước mắt” [17;6]. Chính vì lời lẽ tha thiết đó làm cho tôi có một cách nhìn khác ở Hồ
Biểu Chánh so với các nhà văn đương thời, nói một cách cụ thể tác phẩm của ông giúp
tôi rất nhiều trong thời gian học, cùng vốn từ ngữ phong phú đó càng làm tôi cảm thấy
mình thật nhỏ bé. Với cách diễn đạt thật sâu xa gợi cho tôi nhiều cảm tưởng mới mẽ,
từ đó rút ra bài học là phải tự mình nghiên cứu thể nghiệm và trải qua suy luận tưởng
tượng, mới có được những gì mà mình cần đạt. Đó cũng là lý do để người viết chọn đề
tài này để hòan thành tốt bài luận văn.
8
Qua lớp thành ngữ trong tác phẩm ta sẽ thấy được điều kỳ diệu và sự tinh tế của
tư duy dân tộc và quan điểm thẩm mĩ của cha ông ta đã được tác giả thu gom lại, và có
sự sáng tạo độc đáo trong cách dùng từ. Tôi càng khẳng định rằng cuộc đời ông luôn
gắn liền trong các tác phẩm, mượn hình ảnh nhân vật để nói lên nỗi thống khổ của
cuộc đời mình, và xúc động thay khi phải đọc những trang cuộc đời thật quá bất công
của những con người nghèo, tôi mường tượng như chính cuộc đời mình có trong đó.
Từ tác phẩm tôi muốn tự rèn luyện bản thân mình có được bước đi vững vàng trong
cuộc đời hơn.
Với câu triết lý sâu sắc nhất của nhà văn Trung Quốc đã nói: “Thế hệ chúng ta
thật đáng buồn, đáng tội, tất cả những lời hay tiếng đẹp đã được tiền nhân sử dụng cả.
Ta sinh ra quá muộn ư? Hay là vì không sáng tạo được cái đẹp? Câu triết lý này quả
rất đúng. Vì thế hệ chúng ta hôm nay chỉ là sao chép và dựa vào cái sáng tạo có sẵn,
mà từ đó có cách nhìn mới để vun bồi cho nghệ thuật sáng tạo văn học. Chính vì điều
này mà người nghiên cứu thuộc thế hệ hôm nay, với những câu nói lời văn ít nhiều
cũng có ảnh hưởng và mang dáng dấp của các bậc tiền nhân đi trước. Vì lẽ đó mà tôi
chủ động tìm đến đề tài với mục đích là phải tích lũy thêm từ cái cũ mà mở rộng được
những cái mới cho riêng mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Hồ Biểu Chánh là nhà văn lớn ở miền Nam, ông được xem là người mở đường
cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Ông còn là một trong những người viết tiểu thuyết
thành công ở giai đoạn mở đầu cho văn học Việt Nam, vì đã phản ánh đúng hiện trạng
cuộc sống xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ XX. Ông có hơn năm mươi năm
làm văn, viết đến sáu mươi cuốn tiểu thuyết. Hồ Biểu Chánh còn có công đóng góp hết
sức to lớn đối với văn học nước nhà ở nhiều thể loại như: tiểu thuyết, thơ ca, báo chí,
dịch thuật…Tác phẩm đầu tay là U tình dục (1909) và khi qua đời năm (1958) còn
hàng chục cuốn chưa in, hiện nay những tài liệu nghiên cứu về ông còn rất ít, chỉ nói
chung chung và khái quát chứ không đi sâu vào một vấn đề cụ thể. Những tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh lớp thành ngữ chiếm rất nhiều, thế mà người nghiên cứu chưa thấy
được các nhà nghiên cứu chú tâm khai thác một cách triệt để, và sâu sắc từ phương
diện nội dung tư tưởng lẫn phương diện nghệ thuật. Nếu nói về phương diện nghiên
cứu thì phải kể đến các công trình nghiên cứu đáng kể như:
9
Hoài Anh “Chân dung văn học”. Nxb. Hội nhà văn - 2001 đã có nhận định về
nhà tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh như sau: “Điều kì lạ ở Hồ Biểu Chánh là ông vẫn
ung dung thích thản với phong thái của một nhà hiền triết đem những bài học luân lý
của quá khứ, để nhắc nhở hiện tại và hướng tới tương lai, khuyên con người phải biết
“Vì nghĩa vì tình” nhớ đến “Cha con nghĩa nặng”, bởi mang “Nặng gánh cang
thường” khen người “Trọn nghĩa vẹn tình” vì “Đại nghĩa diệt thân” thương kẻ “Một
đời tài sắc” mà “Chút phận linh đinh” căm ghét “Nhơn tình ấm lạnh” chạy theo
“Tiền bạc bạc tiền” để đến nỗi “Kẻ làm người chịu” thấy thân phận con người trong
xã hội kim tiền chẳng khác chi “Ngọn cỏ gió đùa” ông càng “Cay đắng mùi đời”
trước bao điều “Thiệt giả giả thiệt” nên ông “Tỉnh mộng” ngoài tuy “Cười gượng”
nhưng trong “Khóc thầm” [15;143]. Khuynh hướng đạo lý đã bộc lộ ngay ở nhan đề
tác phẩm, không e ngại ở chỗ nó làm giảm giá trị nghệ thuật do ông đã có một mục
đích, một lý tưởng viết văn mà ông quyết theo đuổi đến cùng. Từ nhận định này người
viết vẫn chưa thấy nghiên cứu sâu về thành ngữ mà chỉ nói sơ lược về cuộc đời và các
tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh.
Về nhận định của Vũ Ngọc Phan trong quyển “Nhà văn hiện đại phê bình văn
học 1” có nói về Hồ Biểu Chánh là về đường lý tưởng. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
cũng giống như tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách, nghĩa là cả hai nhà văn này điều
lấy luân lý làm gốc, lấy cổ gia đình làm khuôn mẫu, lấy sự trung hậu làm điều cốt yếu
trong mọi việc ở đời. Nhưng tiểu thuyết của họ Hồ lại khác tiểu thuyết của họ Hoàng
về mấy phương diện. “Tiểu thuyết của họ Hoàng thiên về tả tình và giọng văn nhiều
chổ ủy mị, cầu kỳ, không tự nhiên; còn tiểu thuyết của họ Hồ thiên về tả việc và lời văn
mạnh mẽ giản dị, nhiều chỗ như là nói thường [18;335]. Cho nên việc Hồ Biểu Chánh
sử dụng từ địa phương xen lẫn với từ toàn dân, và những từ ấy được ông sử dụng lặp
đi lặp lại thường xuyên trong tác phẩm của mình. Vì vậy độc giả ở các vùng khác có
thể đọc và hiểu được nội dung tác phẩm của ông. Nếu ta làm cuộc so sánh về bút pháp
giữa Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh, thì chúng ta thấy rằng ở Hồ Biểu Chánh
đã tạo nên một thế đứng đối lập với ngôn ngữ của các tác giả ở phương Bắc.
Và điều đáng chú ý hơn nữa là nhà nghiên cứu Trần Thị Ngọc Lang ở cuốn
“Phương ngữ Nam Bộ”. Nxb. KHXH - Hà Nội. 1995 với bài viết: “Ngôn ngữ Hồ Biểu
Chánh những phương diện cần nghiên cứu” viết về vấn đề phương diện nghiên cứu
ngôn ngữ, và những đặc điểm ngôn ngữ của Hồ Biểu Chánh. Ở bài nghiên cứu này tác
10
giả chỉ đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ, mà đặc biệt là phương ngữ Nam Bộ, chứ không
nói gì đến thành ngữ trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Đồng thời tác giả còn chỉ ra
được phần nào tầm quan trọng của ngôn ngữ tác phẩm Hồ Biểu Chánh đối với các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ.
Nhà phê bình Thiếu Sơn trong cuốn “Thiếu sơn toàn tập” (tập 1) là người đã
viết về Hồ Biểu Chánh trong “Phê bình văn học cảo” (1993) đã nhận định về tiểu
thuyết của ông: “Cái khó là câu chuyện phải sao cho có lý, lời thuật phải sao cho gọn
gàng, cái cơ mưu phải sao cho tự nhiên, cách kết cấu phải sao cho ý vị.” [20;83].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung trong quyển “Phác thảo văn học Pháp với
văn học Việt Nam hiện đại” của giáo sư Hoàng Nhân. Nxb. Mũi Cà Mau - 1998 đã
nhận định: “Hồ Biểu Chánh đã góp phần tích cực vào việc chuyển giai đoạn cho tiểu
thuyết nói riêng cho văn học dân tộc nói chung” [19;180]. Hạn chế của tác giả là đã
lẫn tránh thực tại chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta đầu thế kỉ XX. Khi lùi lại
một thế kỷ đi tìm sự trùng hợp về thời gian với các sự kiện nội dung nguyên tác. Với
phần nhận định này thì cũng chỉ nói tóm lược về sự nghiệp sáng tác văn chương của
Hồ Biểu Chánh chứ không nghiên cứu vào cụ thể của thành ngữ.
Trong cuốn “Phê bình bình luận văn học”. Nxb. Văn nghệ - TPHCM là do
những nhà nghiên cứu về tác phẩm Hồ Biểu Chánh đều có những nhận định khá sâu
sắc như:
Giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng: “Chúng ta không vì những mặt tiêu cực trong
cuộc đời chính trị của Hồ Biểu Chánh mà có định kiến, đi đến coi sự nghiệp sáng tác
giàu tính nhân dân của ông. Điều này chính đáng và cần thiết đối với sáng tác của các
nhà văn sống trong xã hội cũ nói chung của Hồ Biểu Chánh nói riêng”[19;72].
Về giá trị tư tưởng tác phẩm Hồ Biểu Chánh, giáo sư Nguyễn Lộc cho rằng :
“Điều Hồ Biểu Chánh quan tâm sâu xa và thể hiện đậm nét trong tác phẩm của mình
là: làm thế nào cho xã hội có được phong hóa lành mạnh. Vốn là người bản chất nhân
hậu, ông chưa bao giờ đứng về phía cái mới để đả kích cái cũ, hay ngược lại đứng về
phía cái cũ để đả kích cái mới. Thái độ của ông là tìm cách dung hòa cái mới và cái
cũ, theo ông cái mới và cái cũ đều có những ưu điểm riêng của nó”[19;72].
Tiến sĩ Lê Ngọc Trà lại cho rằng: Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chổ nó mô tả phong tục hay tuyên
truyền đạo lý mà ở chỗ thông qua mô tả phong tục, kết hợp tư tưởng là chủ nghĩa hiện
11
thực. “Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lý đi kèm với nói chuyện
đời kể lại những cảnh đời khác nhau, có thể là không gắn gì với các biến động chính
trị, kinh tế của xã hội nhưng lại gắn chặt với đời người, lại là nội dung của đời sống
hằng ngày”. [19;73]
Về giá trị hiện thực của tác phẩm Hồ Biểu Chánh, nhà nghiên cứu Nguyễn
Ngọc Thạch viết: “Trên nửa thế kỷ trước Hồ Biểu Chánh đã phác họa được bức tranh
hiện thực về kiếp sống người bần cố nông dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, ở một
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hồ Biểu Chánh đã dựng lại cảnh vất vả cực nhọc đói
cơm, rách áo, bị đàn áp nhục mạ…của người nông dân nghèo.”[19;74]
Về giá trị nghệ thuật của tác phẩm Hồ Biểu Chánh, đồng chí Nguyễn Ngọc
Hiếu (Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang) nhận xét: “Đọc tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ta
thấy tác giả thường chú trọng vào những biểu hiện bên ngoài như sắc diện, ngôn ngữ,
cử chỉ, hành động,…của nhân vật”[19;74]. Tâm lý nhân vật được bộc lộ chủ yếu là
những biểu hiện bên ngòai, ấy chính việc xây dựng tác phẩm như vậy có người cho tác
giả quá đơn giản, cạn cợt, thiếu sự sâu xa, tinh tế, làm giảm giá trị tác phẩm. Bởi do
chú ý mô tả những biểu hiện bề ngòai nhiều hơn những chuyển biến bên trong tâm hồn
nhân vật, mà nhân vật của tác giả là người Nam Bộ và đã rõ là người Nam Bộ, nhưng
nhìn chung thủ pháp biểu hiện của tác giả là phù hợp với đặc tính của con người. Đó
chính là thực tế góp phần đắc lực vào việc thể hiện chân thật, tự nhiên bản tính con
người Nam Bộ được Hồ Biểu Chánh miêu tả một cách tường tận.
Về ngôn ngữ tác phẩm Hồ Biểu Chánh giáo sư Cù Đình Tú, nhà nghiên cứu
Hồng Dân, Trịnh Hoàng Mai đều nhất trí ở chổ: “ Hồ Biểu Chánh đã vận dụng khẩu
ngữ hàng ngày nâng lên thành ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm, khác với lối văn
ước lệ, biền ngẫu trước đó”[19;75]. Tác giả chỉ đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ đặc biệt là
phương ngữ Nam Bộ, chứ không nói về thành ngữ của Hồ Biểu Chánh.
Phạm Thế Ngũ cũng có viết: “Câu văn Hồ Biểu Chánh nói chung giản dị ngắn
gọn nhất là ở chổ thuật việc và đối thoại giọng thường suông đuột in hệt cách nói của
cửa miệng bình dân nên dễ đọc dễ hiểu”[19;371]. Hay Trần Hữu Tá với bài viết: “Một
cảm nghĩ nhân đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ” đã nói “Hồ Biểu Chánh đã việt
hóa tác phẩm nước ngoài như: “Cay đắng mùi đời, Chúa tàu Kim Qui, Ngọn cỏ gió
đùa, …nhưng vẫn có sắc thái riêng, giá trị riêng, người đọc vẫn cứ ngỡ là gặp ở đây
những vùng đất Nam Bộ, sống lại không khí một thời của vùng đất này với những
12
người chất phác, trung thực hiền lương đã đổ mồ hôi và máu trên các miệt đồng các
kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long.”[19;22]
Nhìn chung những công trình của các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác cụ
thể một cách tòan diện về cuộc đời, và quá trình sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Qua đó
đã làm nổi bật được một con người hiền lương trung hậu sống trong xã hội kim tiền
nhưng vẫn giữ được thanh cao chánh trực. Cũng bởi một con người sống ở vùng đất
Nam Bộ, biết tận hưởng không khí trong lành của đồng quê man mác đã hun đúc nên
một tâm hồn văn sĩ. Do thế hệ Hồ Biểu Chánh còn thấm nhuần quan niệm “văn sĩ tải
đạo” trước thư lập ngôn, cho nên tác phẩm của ông dùng chứa trong không gian nghệ
thuật cụ thể. Ở mỗi tác phẩm là nhịp sống hối hả, chung đụng, bon chen trên con
đường tư sản hóa tâm lí con người luôn bị biến thiên bởi đồng tiền, quyền lực,… Bằng
ngòi bút đạo lý ông hướng con người vươn đến điều thiện lánh xa điều ác. Đó chính là
lý do những tác phẩm của ông luôn kết thúc có hậu “thiện giả thiện lai, ác giả ác
báo”. Vì lẽ đó mà về phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật ông điều có
đóng góp đáng kể và cũng có phần hạn chế. Về lớp thành ngữ chiếm rất nhiều trong
tác phẩm, mà vẫn chưa thấy công trình nghiên cứu nào sâu sắc, chỉ khai thác khái quát
chung chung về cuộc đời và nội dung tác phẩm mà thôi. Có thể mượn lời của Nguyễn
Quyết Thắng để kết luận về nhà văn Hồ Biểu Chánh: “Các nhà phê bình đa số điều
phiền trách cuộc đời chính trị của đốc phủ Hồ Văn Trung nhưng không ai phủ nhận
công sức đóng góp văn học của nhà văn Hồ Biểu Chánh”. [19;325]
3. Mục đích yêu cầu.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt thì thành ngữ là phương tiện giao tiếp,
cũng như trong sáng tác nghệ thuật văn chương là tất yếu. Vì thành ngữ là tiếng nói là
hơi thở của văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam, không những vậy mà thành ngữ
còn tạo lập mối quan hệ giao tiếp giúp con người đến gần nhau hơn.
Đến với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh” giúp người viết có
tư tưởng suy ngẫm về một vùng quê hẻo lánh ở Nam Bộ trước đây. Hồ Biểu Chánh đã
phán ánh cụ thể một xã hội đã xảy ra trước đó, từ thành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 52557 kilobooks.com.doc
- 52557 kilobooks.com.pdf