Thất nghiệp là một vấn đề trung tâm của mọi xã hội, mọi nền kinh tế; nhất là 
trong thời đại hiện nay khi tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng nhanh chóng. 
Thất nghiệp luôn luôn tồn tại trong các nước, kể cả các nước phát triển cũng như các 
nước đang phát triển trong hầu hết các giai đoạn phát triển của mình.
Do thất nghiệp tồn tại một cách khách quan cho nên để phát triển một nền kinh 
tế đòi hỏi đặt ra là: Sự tăng trưởng kinh tế cân đối với tỷ lệ thất nghiệp 
(Tỷ lệ thất nghiệp cao đến mức độ nào thì chấp nhận được ?). Hiện nay,mỗi 
quốc gia đều có các chính sách, các biện pháp để nhằm mục đích giảm tỷ lệ thất 
nghiệp xuống đúng bằng thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được áp 
dụng ở mỗi quốc gia khác nhau, có thể không bằng nhau như ở Mỹ tỷ lệ thất nghiệp 
tự nhiên 5 - 6%, Nhật tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3 - 4%.
Thất nghiệp tác động rất lớn đến nền kinh tế và xã hội: Khi mức thất nghiệp cao 
xảy ra thì tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của nhân dân bị giảm sút và càng nan giải 
đối với những quốc gia có nền kinh tế thị trường. Về mặt kinh tế, mức thất nghiệp 
cao trong thời kì GNP thực tế thấp hơn mức tiềm năng của nền kinh tế có thể đạt 
được; điều đó đi liền số lượng lớn sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất. Về mặt xã 
hội, thất nghiệp gây ra các hiện tượng tiêu cực như: trộm cắp, cờ bạc, sa sút đạo 
đức., gây ra tổn thất về con người, xã hội, tâm lí và sự ổn định về tư tưởng chính trị.
Đối với nước ta là một nước có dân số đông thì vấn đề việc làm cho người lao 
động đang gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là những vùng ở nông thôn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 16 trang
16 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Thất nghiệp và những giải pháp 
tìm kiếm việc làm 
Lời nói đầu 
Thất nghiệp là một vấn đề trung tâm của mọi xã hội, mọi nền kinh tế; nhất là 
trong thời đại hiện nay khi tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng nhanh chóng. 
Thất nghiệp luôn luôn tồn tại trong các nước, kể cả các nước phát triển cũng như các 
nước đang phát triển trong hầu hết các giai đoạn phát triển của mình. 
Do thất nghiệp tồn tại một cách khách quan cho nên để phát triển một nền kinh 
tế đòi hỏi đặt ra là: Sự tăng trưởng kinh tế cân đối với tỷ lệ thất nghiệp 
(Tỷ lệ thất nghiệp cao đến mức độ nào thì chấp nhận được ?). Hiện nay,mỗi 
quốc gia đều có các chính sách, các biện pháp để nhằm mục đích giảm tỷ lệ thất 
nghiệp xuống đúng bằng thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được áp 
dụng ở mỗi quốc gia khác nhau, có thể không bằng nhau như ở Mỹ tỷ lệ thất nghiệp 
tự nhiên 5 - 6%, Nhật tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3 - 4%. 
Thất nghiệp tác động rất lớn đến nền kinh tế và xã hội: Khi mức thất nghiệp cao 
xảy ra thì tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của nhân dân bị giảm sút và càng nan giải 
đối với những quốc gia có nền kinh tế thị trường. Về mặt kinh tế, mức thất nghiệp 
cao trong thời kì GNP thực tế thấp hơn mức tiềm năng của nền kinh tế có thể đạt 
được; điều đó đi liền số lượng lớn sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất. Về mặt xã 
hội, thất nghiệp gây ra các hiện tượng tiêu cực như: trộm cắp, cờ bạc, sa sút đạo 
đức..., gây ra tổn thất về con người, xã hội, tâm lí và sự ổn định về tư tưởng chính trị. 
Đối với nước ta là một nước có dân số đông thì vấn đề việc làm cho người lao 
động đang gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là những vùng ở nông thôn. 
Có thể nói thất nghiệp và việc giải quyết việc làm hiện đang là vấn đề bức xúc 
của toàn xã hội, là những vấn đề mang tính cấp thiết cần phải được giải quyết. Do 
tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, và đó cũng là lý do em chọn đề tài 
"Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm” để nghiên cứu. 
Nội Dung 
I. Lý thuyết chung về thất nghiệp 
I.1 Thực chất của thất nghiệp 
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại trong nhiều chế độ 
Thất nghiệp, theo đúng nghĩa của từ, mất việc làm là sự tách rời sức lao động 
khỏi tư liệu sản xuất. Khái niệm thất nghiệp ngày càng được bổ sungvà mở rộng dần. 
Hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về thất nghiệp. 
Có những quan điểm cho rằng thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất 
thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao 
động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao 
động nhưng chưa được giải quyết. 
Một quan niệm khác cho rằng thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số nguời 
trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức 
tiền công đang thịnh hành, còn những người thất nghiệplà những người trong độ tuổi 
lao động, có khả năng lao động, trong tuần lễ tham khảo (tức tuần lễ tiến hành điều 
tra thu nhập thông tin không có việc làm đang có nhu cầu tìm việclàm và có đăng kí 
tìm việc làm theo quy định). 
Để thống nhất trong điều tra việc làm năm 1996. Bộ Lao động Thương binh và 
Xã hội quy định: người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số 
hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu 
cầu làm việc. 
I.2 Tỷ lệ thất nghiệp 
Để đánh giá mức độ hay tình trạng thất nghiệp,bên cạnh chỉ tiêu số lượng tuyệt 
đối người ta dùng chỉ tiêu tương đối thông qua các tỷ lệ thất nghiệp ở các thời kỳ. Tỷ 
lệ thất nghiệp thường được thể hiện qua tỷ lệ thất nghiệp chung và tỷ lệ thất nghiệp 
các loại. 
Tỷ lệ thất nghiệp chung có được bằng cách so sánh tổng số người thất nghiệp 
các loại với lực lượng lao động, còn tỷ lệ thất nghiệp một loại nào đó được tính trên 
cơ sở so sánh tổng số người thất nghiệp loại đóvới tổng số người thất nghiệp các loại 
hoặc lực lượng lao động. D.Begg cho rằng tỷ lệ thất nghiệp là số phần trăm của lực 
lượng lao động không có việc làm mặc dầu có đăng ký là muốc làm việc và sẵn sàng 
làm việc. 
Bên cạnh đó, D.Begg còn đưa ra khái niệm thất nghiệp tự nhiên: Tỷ lệ thất 
nghiệp tự nhiên là mức mà ở đó các thị trường lao động khác biệt ở trạng thái cân 
bằng, ở một số thị trường thì cầu quá mức (hoặc nhiều việc không có người làm) 
trong khi đó ở những thị trường khác thì cung quá mức (hay thất nghiệp). Gộp lại, tất 
cả các nhân tố hoạt động để sức ép đối với tiền lương và giá cả trên tất cả các thị 
trường đều cân bằng. 
- Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên luôn phải lớn hơn số 0.Vì trong một nước rộng lớn, 
mức độ cơ động cao, thị hiếu và tài năng đa dạng, mức cung cầu về số loại hàng hoá 
dịch vụ thường xuyên thay đổi, tất yếu có thất nghiệp tạm thời và cơ cấu. 
- Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có liên quan chặt chễ với lạm phát và ngày càng có 
xu hướng tăng. Để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, cần cải thiện dịch vụ thị trường 
lao động, mở các lớp đào tạo, loại bỏ những trở ngại về chính sách của chính phủ; tạo 
việc làm công cộng. 
I.3 Phân loại thất nghiệp 
Có nhiều cách phân loại thất nghiệp khác nhau. Theo nhà kinh tế học D.Begg, 
thất nghiệp bao gồm dạng sau: 
- Thất nghiệp dai dẳng, bao gồm những người có tật về thể xác hoặc tinh thần, 
nên hầu như không thể được thuê làm việc hoặc những ngưòi tạm thời không có việc 
làm trong thời gian chuyển công việc trong nền kinh tế, nơi mà các công việc mời 
chào luôn luôn thay đổi. 
- Thất nghiệp do cơ cấu, xuất hiện do không có sự đồng bộ tay nghềvà cơ hội có 
việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi. 
- Thất nghiệp do thiếu cầu, đó là thất nghiệp theo lý thuyết Keynes, khi tổng cầu 
giảm mà tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh để tăng mức cầu về lao động. 
- Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển, liên quan đến thất nghiệp xảy ra khi tiền 
lương được cố ý duy trì cao hơn (do sự đấu tranh của công đoàn) mà tại đó đường 
cung và đường cầu về lao động cắt nhau. 
- Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện: Thất nghiệp rự 
nguyện xảy ra khi công nhân không chấp nhận tiền lương cân bằng (tại đó đường 
cung và đường cầu lao động cắt nhau) hoặc thấp hơn mức mà họ đã quen nhận. Khác 
với thất nghiệp tự nguyện, thất nghiệp không tự nguyện lại vẫn xãy ra khi công nhân 
vẫn muốn làm việc ở mức lương hiện hành nhưng không thể tìm kiếm được việc làm 
với mức lương đó. 
Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế Việt Nam, bên cạnh thiếu việc làm còn phổ 
biến ở nông thôn, thường thấy dạng thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp tra hình. 
Thất nghiệp hữu hình xãy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm việc làm 
nhưng không tìm kiếm được trên thị trường, còn thất nghiệp trá hình khi người lao 
động làm các công việc với năng suất rất thấp không có góp phần tạo ra sản phẩm xã 
hội và thu nhập quốc dân gì đáng kể mà cốt có thu nhập lấy từ tái phân phối để sống, 
hoặc ẩn náu trong các cơ quan nhà nước. 
Thất nghiệp còn được chia ra thất nghiệp dài hạn và thất nghiệp ngắn hạn. Thất 
nghiệp dài hạn là những người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày 
đăng ký thất nghiệp hoặc từ tuần lễ tham khảo trở về trước, còn những người thất 
nghiệp ngắn hạn là những người thất nghiệp dưới 12 tháng tính từ ngày đăng ký thất 
nghiệp hoặc từ tuần lễ tham khảo trở về trước. 
II. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam 
II.1 Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam 
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế khu vực thành 
thị cả nước là 6,74%. Nếu đem so sánh với 1999 tỷ lệ này giảm 0,11%. 
Trong 8 vùng lãnh thổ có một vùng tỷ lệ thất nghiệp ở mức 8% (Đồng Bằng 
Sông Hồng). Một vùng trên mức 7% (Bắc Trung Bộ). Các vùng còn lại tỷ lệ thất 
nghiệp giao động 6% đến dưới 7% so với các năm trước tỷ lệ thất nghiệp các vùng 
đều giảm nhưng không đáng kể. 
Trong 61 tỉnh thành phố có 20 tỉnh tỷ lệ thất nghiệp năm 2000 tăng so với 1999, 
trong đó có một tỉnh gia tăng ở mức trên 2%, 2 tỉnh tăng từ mức 4 đến dưới 2%, 6 
tỉnh tăng từ 0,5 đến dưới 1%, 11 tỉnh ở mức dưới 0,5%. Cả nước có 41 tỉnh giảm tỷ 
lệ thất nghiệp so với 1999, trong đó hầu hết giảm ở dưới mức 0,5%. 
Riêng các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng tỷ lệ thất nghiệp tuy giảm 
nhưng vẫn ở mức cao (trên 8%) và thành thị có xu hướng tăng. Thời gian nhàn rỗi, 
thiếu việc làm ở nông thôn là: Năm 1998 là 29,12%; Năm 1999 là 31,14%. 
II.2. Thực trạng lực lượng lao động ở Việt Nam 
II.2.1 Quy mô lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 1997 - 2001: 
Tính đến 1/7/2001, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so 
với cùng thời điểm năm 1997 tăng bình quân 975.645 người, với tốc độ 2,7%/năm, 
trong khi đó tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm của thời kì này là 1,5%/năm. 
Theo dự báo của Uỷ ban dân số quốc gia ở giai đoạn 2002- 2005 tỷ lệ gia tăng 
dân số bình quân hàng năm vào khoảng 1,16%/năm, đến năm 2005 dân số nước ta sẽ 
là 82.492,6 ngàn người. Tỷ lệ lực lượng lao động chiếm trong tổng số dân năm 1997 
và 2001 lần lượt là 0,48 và 0,50, bình quân mỗi năm tăng 40/00. Dự kiến giai đoạn 
2002 - 2005 hàng năm tăng khoảng 3,50/00 lực lượng lao động năm 2005 chiếm 
khoảng 51,75% tổng dân số với 422.689,9 ngàn người. 
Qua thống kê dân số cho thấy nếu không có chính sách và giải pháp kết hợp 
đồng bộ thì rất khó trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức 5% vào năm 
2001. 
II.2.2 Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao 
động tiếp tục được nâng cao. 
- Năm 1997, lực lượng lao động khu vực thành thị chỉ chiếm 19,06% tổng lực 
lượng lao động cả nước, năm 2001 đã tăng lên 22,56%, trong khi tỷ lệ lực lượng lao 
động ở khu vực nông thôn giảm từ 80,94% xuống còn 77,44%. Dự báo trong những 
năm tới, tỷ lệ lực lượng lao động ở khu vực thành thị càng tiếp tục tăng nhanh hơn 
cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hoá. 
- Số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I chiếm trong tổng lực lượng 
lao động ngày càng giảm cả về số lượng và tỷ lệ. Năm 1997, tỷ lệ này là 26,67% đến 
năm 2001 giảm xuống còn 20,49%. Bình quân hàng năm giảm được 338.021 người 
với tốc độ giảm 3,86%/năm. 
- Số người tốt nghiệp cấp III tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ: Năm 1997 tỷ lệ 
này là 13,47%, đến năm 2001 tăng lên 17,23%; bình quân hàng năm tăng thêm 
495.258 người với tốc độ tăng 9,22%/năm. 
ở khu vực thành thị, nông thôn tình hình cũng diễn ra tương tự, tuy nhiên trình 
độ học vấn của lực lượng lao động ở thành thị vẫn vượt khá xa so với nông thôn. 
- Lao động đã qua đào tạo tư sơ cấp, học nghề trở lên tăng đáng kể cả về số 
lượng và tỷ lệ chiếm trong tổng lực lượng lao động.Năm 1997, tỷ lệ này là 11,81% 
đến năm 2001 tăng lên 15,51%; bình quân hàng năm tăng thêm 472.038 người,với 
tốc độ tăng 9,92%/năm. Trong đó tăng nhiều nhất và nhanh nhất là lao động được 
đào tạo ở trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên (174.343 người với tốc độ tăng 
16,86%/năm), tiếp đến là lao động đã qua đào tạo nghề - công nhân kỹ thuật 
(131.905 người với tốc độ tăng 7,58%/năm); thấp nhất là tốt nghiệp trung học chuyên 
nghiệp cũng tăng thêm được hàng năm 131.905 người với tốc độ tăng 8,64%/năm; ở 
các vùng lãnh thổ, khu vực thành thị, nông thôn, các tỉnh trọng điểm và nhiều tỉnh 
trong cả nước cũng diễn ra xu hướng tương tự. 
II.2.3 Cơ cấu lực lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo nhóm 
ngành: 
Năm 2001 có sự dịch chuyển rõ rệt so với năm 1997 theo hướng: giảm cả về số 
lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng 
và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành Công nghiệp, 
Xây dựng và Dịch vụ. Năm 1997 có 23.601.918 người làm việc trong các ngành 
nông, lâm, ngư, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các 
ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2001 giảm xuống còn 22.669.907 người 
chiếm 62,56%; trong khi đó lao động làm việc trong các ngành Công nghiệp và Xây 
dựng tăng từ 3.566.513 người (năm 1997) lên 4.743.705 người (năm 2001) và tỷ lệ 
so với tổng số đã tăng từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch 
vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng lẫn tỷ lệ (từ 6.643.564 người lên 8.791.950 người 
và từ 19,64% lên 24,29%). 
II.3 Những tồn tại và hạn chế 
Tuy nhiên, so với yêu cầu, đội ngũ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao 
động hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, trong đó đáng chú ý nhất là: 
- Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp - học nghề trở lên cũng như từ 
công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở thành thị, đặc biệt là các khu 
đô thị trọng điểm (Hà Nội, Hải Phòng, Tp Hồ Chí Minh...). Lực lượng lao động ở 
nông thôn chiếm 77,44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp - học nghề trở lên 
chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có 
trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên, tỷ lệ này chỉ có 40,96%. 
- Cấu trúc đào tạo của lực lượng lao động đã qua đào tạo vốn đã rất bất hợp lý 
lại càng bất hợp lý hơn. Năm 1997, cấu trúc đào tạo là 1-1,7-2,4 (tức là ứng 1 lao 
động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ trung học 
chuyên nghiệp và 2,4 lao động có trình độ sơ cấp - học nghề - công nhân kỹ thuật); 
năm 2001 cấu trúc này là 1-1,2-1,7 trong khi mục tiêu của Nghị quyết Trung ương đề 
ra là 1- 4-10. 
II.4. Nguyên nhân của hiện tượng thất nghiệp thời gian qua tại Việt Nam. 
Hiện tượng thất nghiệp xảy ra như là quy luật của nền kinh tế nhưng việc nhận 
thức và tìm hiểu những nguyên nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong giảm 
thiểu tỷ lệ thất nghiệp nói riêng cũng như tạo tiền đề phát triển kinh tế nói chung. Có 
thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu của thất nghiệp mà Việt Nam cũng gặp phải như ở 
các nước khác: 
* Thất nghiệp do có sự không tương hợp (Thất nghiệp do kết cấu): diễn ra khi 
có sự không tương hợp giữa kỹ năng và địa điểm mà những việc đang khuyết người 
làm đòi hỏi kỹ năng và chỗ ở hiện tại của những cá nhân thất nghiệp. 
- Do tính không linh hoạt của các tiền lương tương đối. Mức tiền lương tối thiểu 
có khi lại giảm sút so với mức tiền lương trung bình. Mức tiền lương cứng nhắc 
không tạo được điều kiện giải quyết việc làm thường đi đôi với hiện tượng các doanh 
nghiệp sử dụng quỹ lương hạn chế nên xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là tất yếu. 
Đáng chú ý nhất là thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường hay còn gọi là thất nghiệp 
theo lý thuyết cổ điển: nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng 
thị trường và cao hơn mức lương cân bằng. Sự thể hiện được thông qua mô hình sau: 
Khoảng cách giữa hai đường cung biểu thị con số thất nghiệp tự nguyện (EF 
hoặc BC). Đường LD là đường cầu lao động, do nhu cầu lao động của các doanh 
nghiệp quyết định. 
 Mức 
 lương LS' 
 LS 
 W D A B C 
 W* G E F 
 E' LD' 
 LD 
 O N4 N3 N2 N
* N1 Số lượng lao động 
- Do thiếu đào tạo nghiệp vụ. Những việc thiếu người làm thường là những việc 
có những đòi hỏi về các kỹ năng đặc thù; thể hiện là sự thiếu thông tin trong việc 
nhận thức đòi hỏi của thị trường lao động (cung lao động không phù hợp do có sự 
mất cân đối của đào tạo với yêu cầu của công việc). Bên cạnh đó các hãng lại không 
muốn đào tạo và đào tạo lại công nhân của mình vì sợ công nhân sẽ rời bỏ hãng. 
- Sự phân bố không hợp lý của lực lượng lao động giữa vùng lãnh thổ cũng như 
giữa các ngành, các lĩnh vực. Những lao động có kỹ năng nhất định phân phối không 
tương xứng với ngành nghề thích hợp gây ra sự thiếu ở nơi này nhưng lại thừa ở nơi 
khác. 
- Sự phân biệt đối xử đối với lực lượng lao động. Một số chủ doanh nghiệp lại 
không muốn thuê mướn phụ nữ, người thiểu số hay vị thành niên, đẩy số lao động 
này vào tình trạng thất nghiệp trong thời gian dài ... 
* Thất nghiệp do cọ sát (do luân chuyển) và việc đi tìm công ăn việc làm: là 
hiện tượng thất nghiệp xảy ra khi có sự luân chuyển lao động. Bởi lực lượng lao động 
không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn di chuyển theo lãnh thổ cũng như giữa các 
ngành các lĩnh vực. 
- Kinh tế học về sự khước từ công việc làm. Một người khi gia nhập vào lực 
lượng lao động không đơn giản là tìm ngay được một công việc thích hợp hay chấp 
nhận một công việc mà lần đầu tìm thấy cho nên anh ta sẽ di chuyển để tìm cho mình 
một công việc thích hợp và mức lương tương xứng. 
- Sự điều chỉnh của Chính phủ đối với lực lượng lao động bằng hàng loạt các 
chính sách về tiền lương hay đào tạo hoặc phân vùng ... đôi khi không phù hợp 
thường gây ra thất nghiệp ngoài mong muốn ... 
* Ngoài ra, các chính sách khác của Chính phủ như: Chính sách tài khoá, sự 
điều chỉnh lạm phát ... tác động ngược chiều với sự giảm của tỷ lệ thất nghiệp hay 
việc đầu tư mất cân đối cũng gây ra sự dư thừa lao động trong nền kinh tế ... 
III ảnh hưởng của thất nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội và các giải pháp 
chủ yếu nhằm làm giảm bớt thất nghiệp 
III.1 ảnh hưởng của thất nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội 
Khi nói đến ảnh hưởng của thất nghiệp, người ta thường tập trung vào ảnh 
hưởng tiêu cực của nó, thất nghiệp ảnh hưởng kinh tế lẫn xã hội 
Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với đói nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp cao 
không những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế mà còn gây nhiều khó khăn cho cuộc 
sống người lao động. Những người thất nghiệp tuy không sản xuất ra sản phẩm, 
nhưng vẩn phải tiêu dùng một lượng nhất định, đặc biệt ở độ tuổi trưởng thành, mức 
tiêu dùng tường lớn hơn các độ tuổi khác. Giả sử số người thất nghiệp đó nếu được 
làm việc, họ sẽ tạo ra một lượng giá trị tối thiểu mà họ tiêu dùng (thực tế thường 
nhiều hơn) thì mỗi năm Nhà nước thiệt hại về mặy kinh tế hàng nghìn tỷ đồng do thất 
nghiệp gây nên. Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng 
đến cuộc sống của những người thất nghiệp. Đối với nước ta, những ngươì thất 
nghiệp là những người không có nguồn thu nhập, phải sống nhờ vào nguồn thu nhập 
khác của gia đình. Hơn nữa, những người thất nghiệp là những người chủ trong gia 
đình, nguồn thu nhập của họ cá ảnh hưởng rất lớn và nhiều khi có tính chất quyết 
định đến đời sống kinh tế của cả gia đình họ nữa. Do tính chất quyết định của kinh tế, 
khi đời sống kinh tế gia đình khó khăn, thất nghiệp tác động đến mọi mặt của cuộc 
sống gia đình. Đây chính là nguyên nhân và nguồn gốc của những phức tạp xã hội. 
Xét về mặt xã hội, thất nghiệp gây nên những hậu quả nặng nề. Khi xét các 
nguyên nhân của các tệ nạn xã hội người ta nhận thấy rằng, những người thất nghiệp 
tham gia một cách đáng kể vào các tệ nạn đó. Những người thất nghiệp tham gia vào 
các tệ nạn xã hội như ma tuý, trộm cướp, mại dâm, đâm thuê chém mướn trong các 
xã hội đen...đều mang lại thu nhập ít nhiều cho người tham gia. Trong lúc các con 
đường khác để tạo việc làm một cách chính đáng bị khép lại, thì con đường đến với 
tệ nạn xã hội lại thường rộng mở hơn và khó bị kiểm soát và ngăn chặn hơn. Thất 
nghiệp đẩy con người đến sự lựa chọn bắt buộc: hoặc chịu ngồi chết đóihoặc phải tìm 
cách làm bất cứ công việc gì, kể cả tham gia vàp các tệ nạn xã hội, để có thu nhập 
khỏi chết đói. Vì thế thất nghiệp gây nhiều khó khăn phức tạp cho công tác quản lý 
xã hội, làm đảo lộn nhiều nếp sống lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ 
tục của một dân tộc. Đến lượt nó, chính nó lại tác động đến nền kinh tế, kìm hãm nền 
kinh tế phát triển. Thất nghiệp còn tác động đến tâm tư tình cảm, suy nghĩ của người 
lao động, thất nghiệp nhiều gây cho người lao động luôn luôn lo lắng, bị đe doạ bởi 
thất nghiệp làm mất lòng tin của họ vào sự tốt đẹp của tương lai. Đối với tầng lớp 
thanh niên, những người tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước, những người có công... 
thì ảnh hưởng tâm lý còn nặng nề hơn. 
Như vậy, thất nghiệp tấc động rất mạnh đến kinh tế xã hội, đến suy nghĩ và 
hành động của con người. Giảm bớt thất nghiệp không những tạo điều kiện để kinh tế 
phát triểnmà còn thúc đẩy sự ổn định xã hội. Một xã hôị có nền kinh tế phát triển, tỷ 
lệ thất nghiệp thấp, những người thất nghiệp được bảo hiểm thất