Hiện nay, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đang
phát triển như vũ bão, nhiều lĩnh vực khoa học kĩ thuật mới, nhiều nghề mới đang
hình thành và phát triển rất nhanh. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo. Trong đó trọng tâm là đổi mới về phương pháp
dạy học và chú ý đến phương pháp tự học. Như Bác Hồ đã từng nói: “dạy học lấy tự
học làm cốt”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Ban hành kèm theo quyết định số
201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của thủ tướng chính phủ), mục 5.2
nêu rõ “Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận
thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực
của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên
trong quá trình học tập, ”[15].
113 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế sách giáo khoa điện tử phần Hóa học vô cơ lớp 11 - Nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
Nguyễn Thị Thanh Thắm
THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA
ĐIỆN TỬ PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ
LỚP 11- NÂNG CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
Nguyễn Thị Thanh Thắm
THIẾT KẾ SÁCH GIÁO KHOA
ĐIỆN TỬ PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ
LỚP 11 – NÂNG CAO
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRANG THỊ LÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ rất lớn từ thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè, các em HS và những người
thân trong gia đình.
Trước hết, tôi xin gởi lời tri ân sâu sắc đến TS. Trang Thị Lân. Sự hướng dẫn
tận tình và tâm huyết cùng lòng thương mến của cô đã giúp tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trịnh Văn Biều, người đã giúp đỡ tôi
rất nhiều, cho tôi những lời khuyên bổ ích và sự động viên tinh thần rất lớn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và cán bộ của phòng khoa học
công nghệ và sau Đại Học trường Đại học Sư phạm TP.HCM đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các em HS trường THPT Gia
Định, THPT chuyên Hùng Vương, THPT Lê Minh Xuân, THPT Thạnh Lộc và các
anh chị em đồng nghiệp khác đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực nghiệm sư phạm.
Tôi xin hết lòng biết ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đang
phát triển như vũ bão, nhiều lĩnh vực khoa học kĩ thuật mới, nhiều nghề mới đang
hình thành và phát triển rất nhanh. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo. Trong đó trọng tâm là đổi mới về phương pháp
dạy học và chú ý đến phương pháp tự học. Như Bác Hồ đã từng nói: “dạy học lấy tự
học làm cốt”.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (Ban hành kèm theo quyết định số
201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của thủ tướng chính phủ), mục 5.2
nêu rõ “Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận
thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực
của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên
trong quá trình học tập,”[15].
Điều 24.2. Luật giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh.”[22].
Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông
được diễn ra theo bốn hướng chủ yếu:
- Phát huy tính tích cực, tự giác chủ động học tập của học sinh.
- Bồi dưỡng phương pháp tự học.
- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Vậy làm sao có thể truyền “ngọn lửa tự học cho học sinh”? Làm sao tạo niềm
say mê hứng thú cho các em? Có lẽ không thể thiếu được vai trò của CNTT.
Chúng ta đang sống trong thời đại của nền kinh tế tri thức. Thời đại mà
CNTT được nhúng ghép vào hầu hết các sản phẩm và dịch vụ kinh tế xã hội. Cho
nên việc ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung, vào nâng cao tính tích cực trong
dạy học nói riêng là xu hướng tất yếu của thời đại. Theo chỉ thị số 29/2001/CT-
BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 30/7/2001 về việc tăng
cường giảng dạy đào tạo và ứng dụng CNTT trong giáo dục, một trong bốn mục
tiêu đặt ra là: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các
cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở các môn học”. Tuy
nhiên vấn đề này hiện nay vẫn chưa được nhiều người nghiên cứu.
Chính vì những lí do trên đã thôi thúc em chọn đề tài: THIẾT KẾ SÁCH
GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ LỚP 11- NÂNG CAO với
mong muốn phát huy tính tự giác, chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự
học, tạo niềm hứng thú học tập cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế SGK điện tử phần hóa học vô cơ lớp 11 nâng cao nhằm hỗ trợ việc
tự học của học sinh THPT.
Thực nghiệm sư phạm để đánh giá chất lượng và hiệu quả của e-book.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Việc thiết kế SGK điện tử nhằm hỗ trợ hoạt động tự học của học sinh lớp 11
trường THPT.
Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy và học hóa học ở trường phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
Nghiên cứu SGK lớp 10, lớp 11, lớp 12.
Nghiên cứu thực trạng việc sử dụng e – book vào dạy và học bộ môn hóa
học ở trường THPT.
Nghiên cứu một số phần mềm để thiết kế e –book.
Thiết kế SGK điện tử phần hóa học vô cơ lớp 11 (nâng cao).
Thực nghiệm sư phạm.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phần hóa học vô cơ lớp 11 (nâng cao THPT).
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế SGK điện tử có nội dung đầy đủ, hấp dẫn, giao diện đẹp sẽ kích
thích hứng thú học tập, hỗ trợ tốt cho HS tự học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đọc và nghiên cứu tư liệu.
Tổng hợp tư liệu.
Phương pháp điều tra.
Phân tích và tổng hợp.
Thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp xử lí thông tin.
8. Những đóng góp mới của đề tài
Sử dụng CNTT thiết kế các bài học dưới dạng e-book, hỗ trợ HS tự học,
tự nghiên cứu.
Giúp GV có nguồn tư liệu phong phú để giảng dạy chương “Nhóm nitơ”
và chương “Nhóm cacbon”.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, với sự phát triển của Internet chỉ cần tìm trên mạng là đã có rất
nhiều các website về hoá học nhưng chủ yếu đều là tiếng Anh, điều này gây trở ngại
lớn trong việc tìm kiếm tri thức của HS phổ thông. Các website của các trường
THPT phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu các thông tin chung về trường,
trợ giúp phụ huynh theo dõi điểm số của HS, mà không có các dịch vụ liên quan
đến học trực tuyến. Một số website luyện thi trực tuyến thì lại thu phí; còn các
website khác thì mức độ tin cậy lại không đảm bảo, đòi hỏi HS phải biết chọn lọc
thông tin để tiếp nhận nếu không sẽ rơi vào tình trạng bội thực thông tin nhưng lại
đói kiến thức. Trên mạng có rất nhiều e- book nhưng chủ yếu là kênh chữ, ít sinh
động.
Bên cạnh đó, số lượng đề tài về nghiên cứu thiết kế website tự học trong các
khóa luận và luận văn tốt nghiệp đến nay chưa nhiều. Sau đây là một số khoá luận
và luận văn tốt nghiệp chuyên ngành hóa học, trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và
ĐHSP Hà Nội:
1. Hỉ A Mổi (2005), Thiết kế website tự học môn hóa học lớp 11 chương trình
phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
2. Phạm Dương Hoàng Anh (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ
cho việc học tập và củng cố kiến thức môn Hóa học phần Hiđrocacbon không
no mạch hở dành cho học sinh THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
3. Nguyễn Thị Thanh Hà (2006), Ứng dụng phần mềm Macromedia Flash và
Macromedia Dreamver để thiết kế website về lịch sử hóa học 10 góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
4. Phạm Duy Nghĩa (2006), Thiết kế Web site phục vụ việc học tập và ôn tập
chương nguyên tử cho học sinh lớp 10 bằng phần mềm Macromedia Flash và
Dreamweaver, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
5. Nguyễn Ngọc Anh Thư (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để tạo trang web hỗ trợ
cho học sinh trong việc tự học môn hóa học lớp 11 nhóm Nitơ chương trình
phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
6. Phạm Thị Phương Uyên (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia
Dreamweaver MX 2004 và Macromedia Flash MX 2004 thiết kế website hỗ
trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức cho học sinh môn hoá học nhóm oxi
– lưu huỳnh chương trình cải cách, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
7. Đỗ Thị Việt Phương (2006), Ứng dụng Macromedia Flash MX 2004 và
Dreamweaver MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho hoạt động tự học hoá
học của học sinh phổ thông trong chương halogen lớp 10, Khóa luận tốt
nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
8. Lê Thị Xuân Hương (2007), Thiết kế website hỗ trợ việc dạy và tự học
chương Halogen lớp 10 THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
9. Trịnh Lê Hồng Phương (2008), Thiết kế học liệu điện tử chương oxi – lưu
huỳnh lớp 10 hỗ trợ hoạt động tự học hóa học cho học sinh trung học phổ
thông, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM.
10. Nguyễn Thị Ánh Mai (2006), Thiết kế sách giáo khoa điện tử (E-book) các
chương về lý thuyết chủ đạo sách giáo khoa hoá học lớp 10 THPT, Luận văn
Thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Thu Hà (2007), Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 – nâng
cao chương “ Nhóm halogen”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ
Chí Minh.
12. Trần Tuyết Nhung (2007), Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “ Dung
dịch – Sự điện li” lớp 10 chuyên hóa học, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP
TP Hồ Chí Minh.
Các website này đều có điểm chung là giúp HS có một công cụ tự học hiệu
quả. Mặc dù vậy, còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Các website chủ yếu được xây dựng trên phần mềm Dreamweaver.
- Phần tư liệu mỗi bài học chưa phong phú.
- Các bài học chưa phân rõ mục lục để thuận tiện tìm kiếm trong quá trình
học. HS xem từng phần phải kéo hết toàn bài.
- Phần bài tập còn hạn chế.
1.2. Đổi mới phương pháp dạy và học
1.2.1. Phương pháp dạy học
Theo TS Trịnh Văn Biều [5], PPDH là một trong những thành tố quan trọng
của quá trình dạy học. Cùng một nội dung nhưng HS có hứng thú, tích cực hay
không, có hiểu bài một cách sâu sắc hay không, phần lớn phụ thuộc vào PPDH của
người thầy. PPDH có tầm quan trọng đặc biệt nên nó luôn luôn được các nhà giáo
dục quan tâm.
PPDH là cách thức thực hiện phối hợp, thống nhất giữa người dạy và người
học, nhằm thực hiện tối ưu các nhiệm vụ dạy học. Đó là sự kết hợp hữu cơ và thống
nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học.
PPDH theo nghĩa rộng bao gồm:
+ Phương tiện dạy học.
+ Hình thức tổ chức dạy học.
+ PPDH theo nghĩa hẹp.
1.2.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
Định hướng đổi mới trong phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12-1996), được thể chế hóa trong Luật giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các
chị thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt chị thị số 14 (4-1999).
Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho HS”[22].
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động.
1.2.3. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
a) Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS
Trong phương pháp tổ chức, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”,
đồng thời là chủ thể của hoạt động “học”- được cuốn hút vào các hoạt động học tập
do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ
chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp đặt. Được đặt vào
những tình huống thực tế của đời sống, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm
thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được
kiến thức, kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp làm ra kiến thức, kỹ năng đó,
không rập theo những khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng
tạo.
b) Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kỹ năng thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho
họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ
được nâng lên gấp bội.
c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Lớp học là môi trường giao tiếp thầy-trò, trò-trò, tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo
luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác
bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn
hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy cô giáo.
d) Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trước đây GV giữ độc quyền đánh giá HS. Trong phương pháp tích cực, GV
phải hướng dẫn HS phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên
quan với điều này, GV cần tạo điều kiện thuận lợi để HS được tham gia đánh giá
lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho
sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho HS.
Nhìn chung từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, GV không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập, hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm
lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo
yêu cầu của chương trình.
1.2.4. Đổi mới PPDH với sự hỗ trợ của CNTT
Thế giới hôm nay đang chứng kiến những đổi thay có tính chất khuynh đảo
trong mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhờ những thành tựu của CNTT.
CNTT đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới, cho
quá trình hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Nó thâm nhập và chi
phối hầu hết các lĩnh vực trong xã hội và là một trong các động lực quan trọng nhất
của sự phát triển. Trong giáo dục – đào tạo, việc đổi mới PPDH bằng cách sử dụng
CNTT đang là một xu thế của thời đại, được UNESCO chính thức đưa ra thành
chương trình hành động trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI và dự đoán “sẽ có sự thay đổi
nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỉ XXI do ảnh hưởng của ICT”.
Ở nước ta, vấn đề ứng dụng ICT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà
nước rất coi trọng. Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo
dục - Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của chính phủ về chương
trình quốc gia đưa CNTT vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết trung ương 2
khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của
Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục - Đào tạo, Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 – 2010,
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai (khoá
VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới đã
yêu cầu ngành giáo dục phải “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS”[15].
Nghị quyết được cụ thể hóa bằng chỉ thị 58 – CT/TW (17/10/2000) của Bộ
Chính trị, trong đó nêu rõ là cần phải: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác
giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào
tạo từ xa phục vụ nhu cầu học của toàn xã hội”.
Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục - Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường
giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã quyết định chọn
năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài
chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tạo bước đột phá về
ứng dụng CNTT trong giáo dục và tạo tiền đề phát triển ứng dụng CNTT trong
những năm tiếp theo. Chỉ thị cũng nêu rõ “CNTT là một phương tiện để tiến tới một
xã hội hóa học tập”. Từ năm học 2008 – 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức
đưa chỉ tiêu thi đua về ứng dụng CNTT trở thành một tiêu chí để đánh giá và biểu
dương các cơ sở giáo dục và các cá nhân đã có đóng góp tích cực về ứng dụng
CNTT trong giáo dục.
Hằng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức
đánh giá, xếp hạng và khen thưởng các đơn vị, cơ sở giáo dục, các cá nhân có thành
tích xuất sắc trong việc ứng dụng CNTT và đánh giá xếp hạng website của các cơ
sở giáo dục.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị
55/2008/CT – BGDĐT về “Tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT
trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 – 2012 (30/09/2008) [11].
CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình
thức dạy học. Những PPDH theo cách tiếp cận kiến tạo, PPDH theo dự án, dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các
hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có
những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học là nâng
cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo
dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép” như
kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm
kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.
1.3. Tự học
1.3.1. Tự học là gì?
Theo từ điển Giáo dục học – NXB Từ điển Bách khoa 2001 [20], tự học là:
“quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực
hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo
dục, đào tạo.”.
Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong quá
trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc biệt quan
trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của Người.
GS-TS Chu Hảo, thứ trưởng Bộ KHCNMT trả lời thẳng vào câu hỏi về kinh
nghiệm của riêng ông trong việc tự học: “Mỗi khi muốn hiểu sâu đề tài nào, tôi tự
yêu cầu mình phải viết một bài về vấn đề đó. Vậy là tôi phải tìm tài liệu đọc, hỏi
han, lắng nghe và phải đào sâu, nắm vững mới viết ra mạch lạc được. Đó là chưa kể
còn phải chuẩn bị các phụ lục tài liệu cho những chỗ khúc mắc, phức tạp phòng khi
cần trình bày có thể bị chất vấn”.
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe
radio, truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triễn lãm, xem
phim, kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người
hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa
chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã
nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề
cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư
viện,Đối với HS, tự học còn thể hiện bằng cách tự làm các bài tập chuyên môn,
các câu lạc bộ, các nhóm thực nghiệm và các hoạt động