Bước vào thế kỷ XXI, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, Đảng ta
đã xác định: “Giáo dục nhân cách đa dạng, độc lập, đó là cơ sở của sáng tạo và
canh tân xã hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tài năng và nhân cách đa dạng. Học để tự
khẳng định mình là tạo ra sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong
phú, đa dạng vốn có của nhân cách cá nhân.” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần II khóa VIII năm 1996).
Như vậy, mục đích của việc dạy học ngày nay là giáo dục học sinh (HS)
thành những con người toàn diện, dạy chữ kết hợp với dạy người.
Từ những năm gần đây, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã đưa vào chương trình học
một nội dung mới: ngoài giờ lên lớp (NGLL). Mục tiêu chính của hoạt động này là
nhằm giáo dục tư tưởng, ý thức, tình cảm, thái độ của HS – giúp các em thực sự trở
thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”, để làm chủ tương lai của đất nước.
Thực tế, hoạt động này không quá xa lạ với chúng ta. Trước đây, đó có thể là những
giờ ngoại khóa, những buổi tham quan, các câu lạc bộ đội nhóm mà bất kì trường
trung học phổ thông (THPT) nào cũng có. Tuy nhiên, ba năm trở lại đây, cùng với
việc đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa (SGK), hoạt động NGLL được
chú trọng khá nhiều.
164 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế và tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dung hóa học cho học sinh lớp 10 và 11 trường trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________
Nguyễn Thị Thanh Hà
Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học môn hóa học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ HOÀNG OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận
tình của TS. Phan Thị Hoàng Oanh cùng các thầy cô trong khoa Hoá truờng
ĐHSP TP. HCM, đặc biệt là thầy trưởng khoa – TS. Trịnh Văn Biều. Việc
hoàn thành đề tài cũng không thể thiếu sự giúp đỡ, ủng hộ tích cực của gia
đình, bạn bè đồng nghiệp và các em học sinh.
Chúng tôi xin trân trọng gửi đến quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp, các
em học sinh và tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân
thành.
Do đề tài còn mới mẻ nên chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp
để xây dựng cho đề tài hoàn thiện hơn.
TP.HCM ngày 30 tháng 8 năm 2009
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH : ban chấp hành
BGH : ban giám hiệu
BGK : ban giám khảo
BTC : ban tổ chức
CNH – HĐH : công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSVC : cơ sở vật chất
CTV : cộng tác viên
ĐHSP : Đại học sư phạm
GV : giáo viên
GVCN : giáo viên chủ nhiệm
HĐGD NGLL : hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HS : học sinh
MC : người dẫn chương trình
NGLL : ngoài giờ lên lớp
NXB : nhà xuất bản
SGK : sách giáo khoa
THPT : trung học phổ thông
TB : trung bình
TN : thanh niên
TP : thành phố
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, Đảng ta
đã xác định: “Giáo dục nhân cách đa dạng, độc lập, đó là cơ sở của sáng tạo và
canh tân xã hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tài năng và nhân cách đa dạng. Học để tự
khẳng định mình là tạo ra sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong
phú, đa dạng vốn có của nhân cách cá nhân.” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần II khóa VIII năm 1996).
Như vậy, mục đích của việc dạy học ngày nay là giáo dục học sinh (HS)
thành những con người toàn diện, dạy chữ kết hợp với dạy người.
Từ những năm gần đây, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã đưa vào chương trình học
một nội dung mới: ngoài giờ lên lớp (NGLL). Mục tiêu chính của hoạt động này là
nhằm giáo dục tư tưởng, ý thức, tình cảm, thái độ của HS – giúp các em thực sự trở
thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”, để làm chủ tương lai của đất nước.
Thực tế, hoạt động này không quá xa lạ với chúng ta. Trước đây, đó có thể là những
giờ ngoại khóa, những buổi tham quan, các câu lạc bộ đội nhóm mà bất kì trường
trung học phổ thông (THPT) nào cũng có. Tuy nhiên, ba năm trở lại đây, cùng với
việc đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa (SGK), hoạt động NGLL được
chú trọng khá nhiều.
Khi đưa vào chương trình, hoạt động này trở nên khá mới mẻ, nên dù muốn
dù không cũng gặp nhiều khó khăn. Nội dung giáo dục vẫn phần nào khô cứng và
mang nặng tính chất lí thuyết, hình thức tổ chức còn hạn chế, đơn điệu, khiến cho
HS khó tiếp nhận. Bản thân giáo viên (GV) còn rất lúng túng vì chương trình mới,
lại chưa có một khóa học nào hướng dẫn cách tổ chức cho thật hiệu quả cả. Vấn đề
đang được các ban ngành quan tâm hiện nay là làm thế nào để những hoạt động
giáo dục NGLL thực sự không chỉ là hoạt động sinh hoạt chính trị được tổ chức
khá hình thức, hay chỉ là những hoạt động thực hành mở rộng bài học trên lớp, mà
trở thành những hoạt động đa dạng nhằm giúp HS chiếm lĩnh các kỹ năng sống –
cụ thể là kỹ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm – là những kỹ năng hết sức quan
trọng trong việc học tập và trong cuộc sống của bản thân HS?
Với mong muốn đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL, nhằm giúp tiết
học thêm đa dạng, phong phú, giúp các em thấy được mối liên hệ giữa học chữ –
học làm người, thấy được sự gần gũi giữa hóa học và cuộc sống, qua đó tạo điều
kiện thuận lợi để giáo dục HS, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “THIẾT KẾ VÀ TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP CÓ NỘI DUNG HÓA HỌC CHO
HỌC SINH LỚP 10 VÀ 11 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế các hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Tổ chức và tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
NGLL, nhằm góp phần giáo dục toàn diện HS khối lớp 10 và 11.
3. Khách thể - đối tuợng nghiên cứu
Khách thể: quá trình giáo dục toàn diện HS ở trường THPT.
Đối tượng: việc thiết kế các hoạt động NGLL cho HS lớp 10 và 11 trường
THPT.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Hoàn thiện hệ thống cơ sở lí luận về hoạt động NGLL.
Tìm hiểu, điều tra thực trạng các tiết học NGLL ở trường THPT.
Xác định những nội dung của hóa học có thể kết hợp cùng với hoạt động
NGLL.
Sưu tầm, sáng tạo những hình thức kết hợp hóa học – NGLL.
Xây dựng tiết NGLL có nội dung hóa học.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Tìm ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động NGLL.
5. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình: khối lớp 10 và 11.
Nội dung: việc đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL tiết học sẽ thêm phong phú,
sinh động, thiết thực, nhờ vậy sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục, góp phần phát triển
năng lực và hoàn thiện nhân cách của HS.
7. Các phuơng pháp nghiên cứu
– Đọc và tham khảo các tài liệu.
– Quan sát.
– Trò chuyện, phỏng vấn.
– Dùng phiếu điều tra.
– Thực nghiệm sư phạm.
– Phân tích, tổng hợp.
– Phương pháp thống kê toán học.
8. Điểm mới của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu và tổ chức thực nghiệm, đề tài đã có những đóng góp sau:
Về mặt lí luận: Góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động giáo dục NGLL:
– Bổ sung thêm về tác dụng của nội dung hóa học trong hoạt động giáo dục
NGLL.
– Đề ra những yêu cầu và qui trình thiết kế các hoạt động NGLL có nội
dung hóa học.
Về mặt thực tiễn:
– Thiết kế được 50 hoạt động gắn kết nội dung hóa học và nội dung NGLL,
tạo nên sự phong phú, đa dạng cho hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
– Tổng kết các bài học kinh nghiệm giúp cho việc tổ chức các hoạt động có
hiệu quả hơn.
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử vấn đề
HĐGD NGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường phổ thông
nói chung và trường THPT nói riêng. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài
giờ học các môn văn hóa trên lớp. Vì vậy, có thể nói hoạt động NGLL là một nội
dung mới, một tên gọi khác của các hoạt động ngoại khóa tại trường phổ thông. Có
thể chia hoạt động này thành hai giai đoạn:
1.1.1. Giai đoạn 1: Hoạt động được tổ chức một cách tự phát
Trước đây, hầu hết các trường THPT tổ chức hoạt động ngoại khóa một cách
tự phát chứ chưa đi vào hệ thống. GV tập trung vào việc lĩnh hội kiến thức chuyên
môn nhiều hơn việc rèn luyện những phẩm chất, kĩ năng, bồi dưỡng nhận thức cho
HS. Một số trường có tổ chức các buổi ngoại khóa bài bản thì lại tập trung chủ yếu
vào kiến thức chuyên môn, hoặc tạo nơi vui chơi, giải trí cho HS sau giờ học.
Trong thời gian này, chương trình giáo dục ở trường phổ thông không có
HĐGD NGLL. Việc tổ chức các hoạt động này cho HS được tiến hành qua văn bản
“Hướng dẫn giáo dục theo chủ điểm” mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ban hành bằng
chỉ thị số 1960 CT/1983. Sau đó, hàng năm Bộ Giáo dục & Đào tạo lại có văn bản
hướng dẫn bổ sung. Với văn bản hướng dẫn này, các nhà trường đã tổ chức thực
hiện HĐGD cho HS tuỳ theo điều kiện và khả năng cho phép [30, tr.3].
Nói một cách đơn giản là hoạt động NGLL chưa được chú trọng đúng mức
như hiện nay. Đó cũng là lí do vì sao trước đây, tài liệu viết về hoạt động NGLL
không nhiều. Có thể kể ra một số tài liệu như:
+ HĐGD NGLL ở trường THCS, của Đặng Vũ Hoạt (1999).
+ Thực hành tổ chức các HĐGD, của Hà Nhật Thăng (2005).
1.1.2. Giai đoạn 2: Hoạt động được đưa vào chương trình chính khóa
Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, cùng với việc cải cách nội dung, chương
trình SGK, hoạt động NGLL cũng được đưa vào chương trình như một phần của
việc học văn hóa. Nhờ vậy, hoạt động mới phát huy được hết tác dụng giáo dục đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách HS.
Từ đó, với mong muốn có thể đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, việc nghiên
cứu về hoạt động này cũng được quan tâm nhiều hơn.
1. Hiện nay, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã xuất bản 3 tập sách cho 3 khối học
trong cấp THPT [6, 7, 8] như một kim chỉ nam cho HĐGD NGLL theo chủ điểm
từng tháng của từng khối. Việc làm này không những khẳng định HĐGD NGLL có
vai trò như một môn học chính thức mà còn giúp điều chỉnh, định hướng HĐGD
NGLL phát triển một cách hệ thống, đồng bộ.
2. Nhiều đề tài nghiên cứu từ cấp cơ sở lên tới cấp Bộ về hoạt động NGLL
cũng đã được thực hiện với mật độ ngày càng dày. Có thể nêu ra một số bài viết và
đề tài nghiên cứu như:
Một số bài viết về HĐGD NGLL:
Hội thảo Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối với việc nâng cao chất
lượng dạy và học trong nhà trường phổ thông do Viện nghiên cứu giáo dục
Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh tổ chức vào tháng 10/2007 với các đề tài:
+ “Một số biện pháp quản lý góp phần nâng cao chất lượng HĐGD NGLL ở
trường phổ thông hiện nay” – ThS. Trương Quang Dũng [15].
+ “Tổ chức HĐGD NGLL ở trường THCS Khánh hội A”– Trần Thị Minh Thi.
Chuyên đề “Quản lý hoạt động NGLL”, sáng kiến kinh nghiệm năm học
2007 – 2008 của GV Nguyễn Thị Thơm, trường tiểu học Đằng Giang [37].
Một số đề tài nghiên cứu về HĐGD NGLL:
“Đổi mới nội dung, phương pháp HĐGD theo chủ đề cho HS ở các trường
trung học cơ sở và trung học phổ thông tỉnh Hải Dương”– Chủ nhiệm đề tài: Th.S
Hoàng Văn Đoạt, Phó Giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo Hải Dương (2004).
“ Tìm hiểu tình hình triển khai thực hiện chương trình môn HĐGD NGLL ở
trường phổ thông trên địa bàn thị xã Thủ Dầu Một và huyện Thuận An” – Phạm
Phúc Tuy –Trần Thị Phượng (2005).
“Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng HĐGD NGLL”– đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường của GV Thái Thị Bi, Bộ môn Tâm lý, khoa Sư
phạm, trường Đại học An Giang (2006) [1].
“Thực hành tổ chức các HĐGD NGLL” – tiểu môđun trong môđun Công tác
đội và thực hành tổ chức HĐGD NGLL, do nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh biên soạn (2007) [13].
“Tổ chức hoạt động NGLL có nội dung hóa học góp phần giáo dục toàn
diện HS ở trường THPT”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học của tác giả Lê Thị Kim
Dung (2008) [14]. Đây là công trình khoa học gần nhất với huớng nghiên cứu của
tác giả. Luận văn gồm 153 trang, nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã xác định được vai trò quan trọng của hoạt động NGLL, đồng thời
làm sáng tỏ phương pháp thiết kế và tổ chức hoạt động NGLL.
Kết hợp kiến thức hóa học với hoạt động NGLL, làm rõ nhiệm vụ, tác
dụng và nguyên tắc hoạt động của hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Nêu rõ cách thức tổ chức và tiến hành hoạt động NGLL có nội dung hóa
học cụ thể cho từng loại hình: hoạt động NGLL theo chủ đề tháng và hoạt
động ngoại khóa hóa học.
Điều tra thực tế nhằm rút ra một số vấn đề thực tiễn của hoạt động NGLL
hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh.
Phần 2. Thiết kế một số HĐGD NGLL có nội dung hóa học
Tác giả đã sáng tạo, thiết kế được:
+ 5 hoạt động NGLL theo chủ đề tháng: Sân chơi hấp dẫn, Lớp chúng
mình – các nguyên tố hóa học, Những món quà đặc biệt, Bảo vệ môi
trường, Hóa học và tài nguyên môi trường.
+ 3 hoạt động theo chủ đề ngoại khóa hóa học: Vui chơi cùng hóa học,
Hóa học lí thú, Cùng kể chuyện các nguyên tố hóa học.
Trong từng bài thiết kế, tác giả nêu rõ mục đích hoạt động, phần chuẩn bị,
cách tiến hành, và vai trò, tác dụng của nội dung hóa học trong hoạt động.
Phần 3. Tiến hành thực nghiệm và chứng minh tính khả thi của đề tài
Nhận xét về các bài viết và đề tài nghiên cứu:
Về mặt lí luận: các đề tài đều khẳng định được tầm quan trọng của HĐGD
NGLL đối với sự phát triển toàn diện của HS, đồng thời làm rõ nhiệm vụ, tác dụng
của hoạt động cùng những yêu cầu cụ thể để tổ chức hoạt động một cách hiệu quả.
Về mặt thực tiễn: các đề tài đã đi sâu vào khía cạnh thực tế, làm rõ, phân tích
thực trạng, cùng những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức. Qua đó tìm ra
những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động.
Tuy nhiên, việc gắn hóa học vào hoạt động NGLL nhằm giáo dục HS là một
đề tài mới mẻ, chưa được nghiên cứu rộng rãi. Cho tới nay, mới chỉ có luận văn
thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim Dung nghiên cứu sâu về vấn đề này. Ngoài những
công việc mà luận văn thực hiện được như đã nêu trên, chúng tôi nhận thấy:
Các hình thức đưa nội dung hóa học vào HĐGD NGLL chưa phong phú.
Mới chỉ có trò chơi ô chữ, tiểu phẩm, kể chuyện, thuyết trình, trò chơi hoạt động...
Một số hoạt động khá công phu, vượt quá khả năng “tự thực hiện” của HS.
Chưa phát huy được hết vai trò tự quản của HS trong hoạt động.
Phần bài học kinh nghiệm sau một số hoạt động còn sơ sài.
Chưa bổ sung được nhiều nội dung mới cho hệ thống cơ sở lí luận.
3. Bên cạnh đó, có một số đề tài nghiên cứu của sinh viên khoa Hóa trường
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh cũng đề cập tới việc tổ chức ngoại khóa hóa học ở trường
phổ thông, nhưng lại không gắn cụ thể vào hoạt động NGLL.
1.2. Hoạt động
1.2.1. Khái niệm chung về hoạt động
Theo sách Tâm lý học đại cương [12, tr 35 – 38], hoạt động là mối quan hệ
tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới, cả về phía con người. Trong mối quan hệ đó có hai quá trình
diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau:
Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa, trong đó chủ thể chuyển năng
lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, có nghĩa là tâm lý của của con người
được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa: khi hoạt động con người chuyển
từ phía khách thể vào bản thân mình những qui luật, bản chất của thế giới tạo nên
tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh thế giới đó.
1.2.2. Những đặc điểm của hoạt động
Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đối tượng”: đối tượng của hoạt
động là cái con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh (động cơ).
Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể.
– Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: mục đích của hoạt động là làm
biến đổi thế giới (khách thể), biến đổi bản thân chủ thể.
– Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: trong hoạt động con người
“gián tiếp” tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý trong đầu, qua việc sử dụng
công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ.
1.2.3. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động:
1. Xét về phương diện cá thể: có 4 loại hoạt động là vui chơi, học tập, lao động và
hoạt động xã hội.
2. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần) có hai loại hoạt động:
– Hoạt động thực tiễn : tạo ra sản phẩm vật chất là chủ yếu.
– Hoạt động lý luận: tạo ra sản phẩm tinh thần.
3. Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành 4 loại: hoạt động biến đổi, hoạt
động nhận thức, hoạt động định hướng giá trị, hoạt động giao lưu.
1.2.4. Cấu trúc hoạt động
Quan điểm A.N.Leochiev về cấu trúc vĩ mô của hoạt động, bao gồm 6 thành tố
và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Khi tiến hành hoạt động :
■ Về phía chủ thể bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa 3 thành tố này, đó
là : hoạt động – hành động – thao tác. Ba thành tố này thuộc về các đơn vị thao tác
(mặt kĩ thuật) của hoạt động.
– Về phía khách thể (đối tượng hoạt động) bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ
giữa chúng với nhau, đó là: động cơ – mục đích – phương tiện. Ba thành tố này tạo
nên “nội dung đối tượng” của hoạt động (mặt tâm lí).
– Cụ thể là hoạt động hợp bởi các hành động. Các hành động diễn ra bằng các
thao tác. Hoạt động luôn hướng vào động cơ (nằm trong đối tượng) đó là mục đích
chung của hoạt động. Mục đích chung này được cụ thể bằng những mục đích cụ thể,
bộ phận mà từng hoạt động hướng vào. Để đạt mục đích con người phải sử dụng
các phương tiện.
■ Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác và nội
dung đối tượng của hoạt động, tạo ra sản phẩm của hoạt động. Có thể khái quát cấu
trúc chung của hoạt động như sau:
Chủ thể Khách thể
Hoạt động cụ thể Động cơ
Hành động Mục đích
Thao tác Phương tiện
Sản phẩm
1.2.5. Vận dụng lý thuyết hoạt động vào đề tài nghiên cứu
Dựa vào cấu trúc của hoạt động, chúng tôi có những vận dụng vào đề tài
nghiên cứu như sau:
■ Muốn tạo được một sản phẩm mới, đạt chất lượng – ở đây chính là sự lĩnh
hội tri thức, sự hình thành và phát triển kĩ năng, sự hoàn thiện dần về ý thức và tư
tưởng của HS, bản thân người thiết kế cần phải nắm rõ cấu trúc của hoạt động.
– Chủ thể của hoạt động ở đây là người tổ chức (có thể là GV hoặc chính HS),
người tham gia (HS); khách thể là các hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Cụ thể: giữa chủ thể và khách thể phải có sự tác động qua lại lẫn nhau. HS
tác động (thực hiện), làm cho hoạt động này phát huy, bộc lộ tác dụng của chúng.
Thông qua đó, HS lại thu về được kiến thức, kĩ năng, hình thành thái độ, nhận thức
mới.
■ Để làm được như vậy, khi thiết kế hoạt động, GV cần chú ý đến sự thống
nhất, xuyên suốt giữa động cơ, mục đích và phương tiện tiến hành. Hoạt động luôn
hướng vào động cơ. Do đó, các hoạt động NGLL thông qua các hình thức tổ chức
phải thu hút, hấp dẫn với người tham gia, và phải có tác dụng phát huy khả năng,
bồi dưỡng tư tưởng, nhận thức, tình cảm. Khi chủ thể tìm thấy mục đích của mình
trong đối tượng thì sẽ có nhiều nỗ lực hơn để giành được nó. Mặt khác, sự hấp dẫn,
thú vị của tiết học cũng có tác dụng tạo ra tâm lý thoải mái cho người tham gia,
thêm điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động.
■ Khi tiến hành hoạt động, về phía chủ thể (HS) có ba thành tố là hoạt động –
hành động – thao tác. Để việc rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực có
hiệu quả, khi tổ chức một hoạt động NGLL, GV cần chú ý đến thao tác, hành động
bao gồm thao tác làm việc theo nhóm, thuyết trình, tìm tư liệu, chất vấn, thao tác thí
nghiệm sao cho thật hợp lý, và đạt những yêu cầu đề ra. Chính sự hợp lý ấy sẽ tạo
nên mạch liên tục cho một chuỗi những thao tác, và khi những thao tác được sử
dụng một cách thuần thục sẽ dẫn tới kĩ năng được hình thành một cách nhanh
chóng, hiệu quả. Cũng thông qua những thao tác, hành động này mà dần hình thành
trong HS những nhận thức, năng lực mới.
1.3. Hoạt động giáo dục
Theo tài liệu Giáo dục học đại cương [11, tr.15], chúng ta có thể hiểu HĐGD
qua những vấn đề sau:
1.3.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Thuật ngữ “giáo dục học” có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
– Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ
thống các tác động sư phạm khác diễn ra ở trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà
trường cũng như trong và ngoài xã hội.
– Theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt đạo đức,
tư tưởng và hành vi. nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ và
những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.
Như vậy, giáo dục trước hết là sự tác động của những nhân cách này đến
những nhân cách khác, tác động của những nhà giáo dục đến những người được
giáo dục, cũng như tác động của những người được giáo dục với nhau. Chính thông
qua những hoạt động của người học được thực hiện trong mối quan hệ nhất định mà
nhân cách của người học được hình thành và phát triển.
1.3.2. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách HS
Quá trình xã hội hình thành cá nhân con người được thực hiện do sự tác động
của nhiều nhân tố bên ngoài, trong đó c