Luận văn Thơ Giang Nam - Tiếng nói trữ tình sâu lắng, chân thành

Khi còn học ở Quy Nhơn, mới mười hai tuổi Giang Nam đã có những sáng tác đầu tay viết về quê hương đất nước, nhưng như nhà thơ tự nhận là “vẫn còn non nớt”. Bước vào cuộc kháng chiến, ông được sống với những năm tháng chiến đấu tuy gian khổ nhưng hào hùng, vĩ đại của cả dân tộc. Và ông thực sự được “chín” trong thực tiễn cách mạng. Một điều dễ nhận thấy trong các sáng tác của ông giai đoạn này là hình ảnh quê hương, đất nước. Tình yêu quê hương xứ sở là tình cảm sẵn có trong trái tim mỗi người và Giang Nam cũng không ngoại lệ. Quê hương, đất nước vốn là đề tài quen thuộc, là nguồn cảm hứng lớn của thi ca từ bao đời nay, là nơi bao thế hệ thi nhân gặp nhau và gặp lại mình trong tình yêu lớn của dân tộc. Trong tiếng gầm của đại bác, xe tăng tiếng hát ca ngợi quê hương, đất nước vẫn vút cao.

pdf96 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2264 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thơ Giang Nam - Tiếng nói trữ tình sâu lắng, chân thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thơ Giang Nam - Tiếng nói trữ tình sâu lắng, chân thành MỤC LỤC MỞ ĐẦUError! Bookmark not defined. 1. Lý do chọn đề tàiError! Bookmark not defined. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đềError! Bookmark not defined. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứuError! Bookmark not defined. 4. Phương pháp nghiên cứuError! Bookmark not defined. 5. Đóng góp mới của luận vănError! Bookmark not defined. 6. Cấu trúc của luận văn:Error! Bookmark not defined. Chương 1: GIANG NAM – CUỘC ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁCError! Bookmark not defined. 1.1. Cuộc đờiError! Bookmark not defined. 1.2. Những chặng đường sáng tácError! Bookmark not defined. 1.3. Quan niệm nghệ thuậtError! Bookmark not defined. Tiểu kết Error! Bookmark not defined. Chương 2: THƠ VÀ TRƯỜNG CA GIANG NAM-TIẾNG NÓI TRỮ TÌNH SÂU LẮNG, CHÂN THÀNHError! Bookmark not defined. 2.1. ThơError! Bookmark not defined. 2.1.1. Thơ ca kháng chiến chống MỹError! Bookmark not defined. 2.1.2. Thơ ca từ sau năm 1975 đến nay51 2.1.3. Đôi nét về nghệ thuật 72 2.2. Trường caError! Bookmark not defined. 2.2.1. Trường ca trước năm 1975Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Trường ca sau năm 1975Error! Bookmark not defined. Tiểu kếtError! Bookmark not defined. Chương 3: VĂN XUÔI CỦA GIANG NAM – NHỮNG SÁNG TẠO TỪ NGUỒN HỒI ỨCError! Bookmark not defined. 3.1. Truyện ngắnError! Bookmark not defined. 3.1.1. Những cảm hứng, chủ đề chínhError! Bookmark not defined. 3.1.2. Thế giới nhân vậtError! Bookmark not defined. 3.2. KíError! Bookmark not defined. 3.2.1. Bút kíError! Bookmark not defined. 3.2.2. Hồi kíError! Bookmark not defined. Tiểu kếtError! Bookmark not defined. KẾT LUẬNError! Bookmark not defined. TÀI LIỆU THAM KHẢOError! Bookmark not defined. PHỤ LỤC 2.1.1. Thơ ca kháng chiến chống Mỹ 2.1.1.1. Khi còn học ở Quy Nhơn, mới mười hai tuổi Giang Nam đã có những sáng tác đầu tay viết về quê hương đất nước, nhưng như nhà thơ tự nhận là “vẫn còn non nớt”. Bước vào cuộc kháng chiến, ông được sống với những năm tháng chiến đấu tuy gian khổ nhưng hào hùng, vĩ đại của cả dân tộc. Và ông thực sự được “chín” trong thực tiễn cách mạng. Một điều dễ nhận thấy trong các sáng tác của ông giai đoạn này là hình ảnh quê hương, đất nước. Tình yêu quê hương xứ sở là tình cảm sẵn có trong trái tim mỗi người và Giang Nam cũng không ngoại lệ. Quê hương, đất nước vốn là đề tài quen thuộc, là nguồn cảm hứng lớn của thi ca từ bao đời nay, là nơi bao thế hệ thi nhân gặp nhau và gặp lại mình trong tình yêu lớn của dân tộc. Trong tiếng gầm của đại bác, xe tăng tiếng hát ca ngợi quê hương, đất nước vẫn vút cao. Tình yêu quê hương, đất nước thật đậm đà trong thơ ca cách mạng [21, tr.99-100]. Chẳng hạn Lê Anh Xuân đã có những vần thơ đẹp về hình ảnh đất nước: Có nơi đâu đẹp tuyệt vời Như sông, như núi, như người Việt Nam Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa. (Nguyễn Văn Trỗi) Còn đất nước trong thơ Viễn Phương đẹp bình dị, hiền hòa và đầy chất thơ: Tổ quốc mình mát rượi những dòng sông Bốn ngàn năm đôi má vẫn hồng Đỉnh núi vươn cao cho mặt trời làm tổ Bình nguyên dài nắng trải mênh mông. (Tổ quốc) Hay như Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về Đất nước gắn liền với những gì cụ thể, gần gũi, thân thiết: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó… (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước bắt nguồn từ cội nguồn văn hóa dân gian, từ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, từ phong tục tập quán, từ tình nghĩa thủy chung của con người, từ lao động,… Tất cả đã làm nên “Đất Nước muôn đời” và những người làm ra Đất Nước đó chính là Nhân dân với những lớp người qua bốn ngàn năm, nên Đất Nước đó là “Đất Nước của nhân dân - Đất Nước của ca dao thần thoại”. Tiếp thu mạch nguồn truyền thống của dân tộc, đi vào kháng chiến và cách mạng, sống cuộc đời chiến đấu giữa cảnh Quê hương mình trăm vết thương rỉ máu, đã giúp Giang Nam lớn lên thật nhiều trong suy nghĩ và trong cảm xúc nghệ thuật. Dù viết về đề tài nào cũng là dịp để ông gắn bó với quê hương hơn. Rất ít những bài thơ mà tác giả không nói về quê hương. Quê hương là đất mẹ, quê hương là “Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”, là “trang sách nhỏ”, là “những ngày trốn học, đuổi bướm cạnh cầu ao”, là tình yêu đầu đời với “cô bé nhà bên”, là “dòng Krông-nô nước phù sa cuốn đỏ”, quê hương là “rẫy lúa, nương khoai”, quê hương là “tiếng xa quay dìu dịu ngân dài”, quê hương là “tiếng dân ca như mạch nước ngầm trong mát”, quê hương là “tiếng hò khoan dìu dặt” [107, tr.99-100]. Chính vì vậy mà khi đọc thơ Giang Nam, Hoài Thanh đã có nhận xét thật chính xác: “Tình yêu quê hương đất nước đúng là linh hồn của thơ Giang Nam” [20, tr.115]. Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê cha đất tổ, là nơi có tiếng mẹ ru con dịu dàng từ thuở còn nằm nôi. Vì vậy, dù thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến từ khi còn là chàng thanh niên mười sáu tuổi, trái tim ông vẫn hướng về quê mẹ mến thương và những vần thơ ngọt ngào về quê hương Ninh Hòa – Khánh Hòa vang lên thật nồng nàn, tha thiết: Quê hương ơi, tạm biệt! Ta đi đây thôi nhé, ta đi đây! Nhớ thương nhiều, từ bến nước đồi cây Từ khung cửa, mảnh trời, từ góc vườn, đám bí. (Đi để trở về) Kháng chiến bùng nổ, quê hương đầy bóng giặc, tạm biệt quê hương thân yêu, tác giả dấn thân vì lý tưởng cao đẹp, giải phóng quê hương, mang lại sự bình yên cho thôn xóm. Ra đi, thế nhưng lòng vẫn mang nặng nỗi nhớ thương, lưu luyến. Một bến nước, đồi cây, một khung cửa, mảnh trời, một góc vườn, đám bí thật giản dị, nhưng đó là tất cả, là quê hương, là nơi in dấu những kỷ niệm tuổi thơ. Hai câu cảm thán đi liền nhau, cùng với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi đã phần nào diễn tả tâm trạng bịn rịn, lưu luyến, nhớ thương của người ra đi. Chính vì lẽ đó mà trên những bước đường hành quân hay khi “vòng vây kẻ thù xiết chặt dưới chân”, tác giả vẫn mơ về quê hương yêu dấu: Có những buổi dừng chân bên bờ suối Nhai lá thay cơm, nhường nhau hạt muối Mơ thấy quê hương trong giấc ngủ chập chờn (Tiếng hát trên cao) Xa quê nhưng trong lòng nhà thơ vẫn giữ cho mình một góc nhỏ quê hương. Quê biển miền Trung với sóng, với gió vẫn vỗ mãi trong lòng người xa quê nỗi nhớ thương da diết: Tôi lại về quê biển miền Trung Nghe sóng nói những lời thương nhớ Nghe gió gọi những tên người quen cũ Nghe rì rầm ghềnh đá nhấp nhô Nha Trang ơi! Biển đêm sóng vẫn vỗ bờ (…) Biển vẫn là quê hương Nơi cuối cùng tôi đến Biển vẫn là tâm hồn Chắt chiu từng kỷ niệm. (Biển miền Trung) Quê hương là nơi ta sinh ra và cũng là nơi ta trở về. Với Giang Nam, biển đâu chỉ là quê hương, biển chính là tâm hồn nhà thơ, là nơi lưu giữ những kỷ niệm, những kí ức khó quên. Biển là một phần không thể thiếu trong cuộc đời nhà thơ cũng như của những con người sinh ra từ biển. Yêu biển, gắn lòng mình với phố biển thân thương, Giang Nam say sưa ca ngợi vẻ đẹp của biển: Làng biển của em, làng biển của anh Người chung thủy nên biển càng đẹp lắm Bãi cát, hàng dương, làng chài đầy nắng Đến bây giờ mới thật là ta! Buổi bình minh biển nhìn rất xa Và Hòn Lớn, Hòn Tre xinh như hòn ngọc. (Biển miền Trung) Ai một lần đặt chân đến Nha Trang, ngắm nhìn biển trong buổi bình minh, mới cảm nhận hết vẻ đẹp mặn mà của biển, mới hiểu hết những điều nhà thơ gởi gắm trong những vần thơ. Biển thật đẹp với bãi cát trắng trải dài lấp lánh, với hàng dương rì rào trong gió, với những làng chài đầy nắng, ở đó có những con người cần mẫn lao động, suốt đời bám biển, thủy chung với biển. Phải yêu biển mãnh liệt, Giang Nam mới có những cảm nhận, những rung động tinh tế trước vẻ đẹp của Hòn Lớn, Hòn Tre. Đó không chỉ là cảm nhận của riêng ông mà còn là cảm nhận chung của mọi người khi đến với Nha Trang - Khánh Hòa. Sinh ra từ biển, lớn lên với biển, vị mặn của biển đã ngấm sâu vào da thịt, vào tâm hồn nên những năm sống chiến đấu ở rừng thiếu muối, ông càng nhớ chất mặn của biển, của làng quê mình: Ôi chất mặn đã làm nên đảo, nên dừa Ăn hột muối Cầu Hin, thương người bám biển. Biển với những lời ru cho em, cho anh Từ biển mình đi đánh giặc. (Biển miền Trung) Biển hiền hòa chảy dọc suốt tuổi ấu thơ. Biển dịu dàng, ngọt ngào như lời ru của mẹ cho em, cho anh. Chúng mình lớn lên trong lời ru của sóng biển. Chất mặn của biển đâu chỉ làm nên đảo, nên dừa mà nó còn ngấm sâu trong từng thớ thịt, hun đúc nên tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Và “từ biển mình đi đánh giặc”. Quê hương với Giang Nam đâu chỉ có biển, quê hương còn có cả tiếng hát ru con buồn buồn của mẹ, có cả những cuộc đời lam lũ, có cả xương máu của những người đã ngã xuống mang lại sự bình yên cho quê hương: Hăm ba năm rồi Ba chưa về quê nội Nơi ba lớn lên Giữa những cây xoài, cây ổi Nơi ba biết yêu Tiếng nội hát buồn buồn “À ơi, con mèo, con chuột có lông Ống tre có lỗ, nồi đồng có quai” Ở đó có những cuộc đời Quanh năm còng lưng trên ruộng cạn. Ở đó có máu chú cô rắc trên những cánh hoa một màu đỏ thắm. (Con có về thăm quê nội) Nhịp điệu thơ chậm, buồn kết hợp với lối thơ tự do rất phù hợp với tâm trạng của người con xa quê mong mỏi được một lần về thăm. Hai mươi ba năm đi mải miết “mang quê hương mình xanh biếc trên lung”, trái tim nhà thơ luôn hướng về quê mẹ với tình cảm thật thiêng liêng, sâu nặng. Chỉ cần một hình ảnh, thanh âm khẽ chạm vào trái tim cũng có thể làm ông nhói lòng. Ông gởi lời nhắn nhủ cho đứa con gái thân yêu “con có về thăm nơi ấy thay ba” hay đó cũng là lời nhắn nhủ với chính mình. Hai mươi ba năm nhớ thương về một vùng quê, nơi hoa toàn màu đỏ, nơi thắm thiết lời ru ngọt ngào ngày xưa của mẹ theo nhịp võng đong đưa đọng lại trong trái tim nhà thơ và theo ông trên mỗi nẻo đường chiến đấu. Chính vì lẽ đó mà dù xa cách nhà thơ vẫn gắn lòng mình với quê hương: Em ơi! Dù xa xôi cách trở Dù hết cùng em chia ngọt xẻ đau Anh vẫn là cây cổ thụ rễ sâu Bám chặt xóm thôn, ăn vào lòng đất. (Đi để trở về) Một điều dễ nhận thấy là Giang Nam hay sử dụng đại từ nhân xưng “Em”. Em là ai? Là một người thân thiết gắn bó, một nửa yêu thương của nhà thơ, hay em là cả quê hương thân thương. Dù là ai đi chăng nữa thì “Em” vẫn là nhân vật trữ tình để nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình. Tiếng gọi “Em ơi!” vang lên thật tha thiết và gói trọn trong ấy là một lời hứa thủy chung, chân thành nhưng rất đỗi thiêng liêng! Dù có ở phương trời nào Anh vẫn nguyện là một phần của quê hương, như cây cổ thụ suốt đời bám rễ vào quê hương. Dù không trực tiếp chiến đấu trên mảnh đất Ninh Hòa yêu thương, nhưng tấm lòng ông lúc nào cũng hướng về quê hương. Và tâm hồn nhà thơ ngân vang rộn rã khi hay tin quê mình được giải phóng: Đi giữa đường Trường Sơn Nghe quê mình giải phóng Ba mươi năm dài, có phút giây nào lòng ta không cháy bỏng Khánh Hòa ơi, nôi mẹ ru ta Rất thiêng liêng từng ngọn cỏ, tàu dừa. (Khánh Hòa – Nha Trang ơi) Ba mươi năm chưa về thăm quê mẹ. Ba mươi năm dài mang nỗi nhớ khôn nguôi về một vùng đất yêu thương… Và trong tấm lòng của người con xa quê, gắn lòng mình với quê hương, đất nước những vật vô tri bình thường như ngọn cỏ, tàu dừa sao quá đỗi thiêng liêng, bởi đó là biểu tượng, là một phần của quê hương. Ba mươi năm dài tranh đấu, có “bao nhiêu người thân yêu ngã xuống”, có bao “ước mơ cao hơn ngọn núi xanh” và bao “căm thù dập dồn hơn sóng” (Giang Nam). Và hôm nay nghe quê hương được giải phóng làm sao không khỏi vui mừng. Trong niềm vui sướng tột cùng, nhà thơ mơ một điều thật giản dị: Trong ngày vui này, xin được về cùng em Giữa thành phố thùy dương sóng vỗ rất hiền Để tung hoa Lên chiếc tăng “giải phóng” đầu tiên Và khóc, cười cho thỏa thích. (Khánh Hòa – Nha Trang ơi) Mang nặng trong lòng nỗi nhớ quê hương nên ông luôn ao ước được trở về: Ta sẽ trở về mảnh đất nhỏ quê hương Ấm áp, hiền lành của lòng ta: quê mẹ. Chân sẽ bước trên ruộng đồng màu mỡ Trong tiếng cười, trong tiếng hát yêu thương. (Đi để trở về) Mấy ai đi xa lại không ao ước được trở về bến đỗ bình yên, ấm áp: quê mẹ, quê hương. Ước mơ giản dị ấy cháy bỏng khôn nguôi trong tâm hồn nhà thơ. Được trở về quê hương là một điều thật hạnh phúc! Hạnh phúc đơn sơ ấy phải đánh đổi bằng xương máu, nước mắt của biết bao đồng bào, đồng chí thân yêu. Và sẽ hạnh phúc hơn khi quê hương không còn bóng kẻ thù xâm lược để mảnh đất này mãi mãi nở hoa, để ta có thể bước những bước tự do trên ruộng đồng màu mỡ trong tiếng cười, tiếng hát yêu thương. Quê hương trong cách hiểu chung đó là nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi in dấu những kỷ có mặt ở những niệm tuổi thơ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm hồn và nhân cách của mọi người. Nhưng đối với Giang Nam lại không hẳn như thế. Do yêu cầu công tác, phải bám chặt chiến trường, phải nơi nóng bỏng nhất của cuộc chiến, nên Giang Nam có điều kiện đi đến nhiều nơi. Chiến trường Nam Bộ rộng lớn không chỉ là mảnh đất màu mỡ, là hiện thực sinh động tạo chất liệu cho ông sáng tác mà còn là quê hương thân thiết, gắn bó máu thịt với cuộc đời ông. Đó là Sài Gòn, thành phố muôn đời vẫn trẻ, đó là Củ Chi, Long An, Bến Tre, Cà Mau,… Mỗi vùng đất đi qua đều để lại trong lòng ông bao cảm xúc rưng rưng về quê hương đất nước. Với ông đâu cũng là quê hương! Chính không gian miền Nam rộng lớn đã giúp Giang Nam thể hiện tình yêu quê hương đất nước trong thơ toàn diện hơn. Dường như có sự đồng điệu trong tâm hồn của thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ khi đề cập đến điều này. Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng đã từng viết: Ngọn gió đi qua thành nỗi nhớ Cát khô cằn ở mãi hóa yêu thương. (Gió Lào cát trắng – Xuân Quỳnh) Câu thơ trữ tình mà đậm chất chính luận thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó của con người đối với vùng đất mình đã từng sinh sống. Giang Nam khi về sống giữa quê em mới có mấy ngày mà cứ ngỡ như đã ở đây lâu lắm rồi, và khi chia xa, ông vẫn “nhớ thương mãi một góc trời quê hương” (Giang Nam). Có thể thấy hình ảnh quê hương Nam bộ luôn thường trực trong trái tim của nhà thơ. Yêu mến, tự hào vô cùng về vùng đất anh dũng thành đồng, Giang Nam say sưa ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người miền Nam. Vẻ đẹp của vùng quê Nam bộ hiện lên ở sự xanh mát của hàng dừa, ở cánh đồng lúa vàng nặng trĩu bông, ở đàn cò trắng sải cánh trên đồng ruộng bao la, ở cái nắng vàng rực rỡ, ngọt ngào. Và tấm lòng nhà thơ đôi khi hòa quyện với cảnh sắc quê hương: Tôi đã nghe tiếng hò khoan dìu dặt Một chiều Cửu Long bát ngát mây trời Tôi đã về thăm phố chợ đông vui Vết đạn còn in trên tường vôi, mái ngói. (Đất anh hùng) Trong cảm nhận của Giang Nam, quê hương đất nước vốn là những gì rất cụ thể, gần gũi, thân quen. Hình ảnh quê hương đất nước trong thơ Giang Nam gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ: Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ “Ai bảo chăn trâu là khổ?” Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Những ngày trốn học Đuổi bướm cạnh cầu ao Mẹ bắt được… Chưa đánh roi nào đã khóc! Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích… (Quê hương) Tiếng thơ Giang Nam là tiếng nói chân tình, ấm áp đưa ta về với những kỷ niệm tuổi thơ và quê hương. Quê hương đối với mỗi người là cái gì đó thật giản dị, gần gũi nhưng cũng rất đỗi thiêng liêng. Với Giang Nam, quê hương là con đường ngày ngày cắp sách đến trường, là trang sách nhỏ chở bao mơ ước, là phút giây thả hồn mình mơ màng nghe tiếng chim hót, là những ngày trốn học đuổi bướm cầu ao, là tiếng khóc sợ đau của trẻ nhỏ khi bị mẹ bắt gặp, là tiếng cười khúc khích của cô bé nhà bên. Không những thế, quê hương đất nước còn hiện lên qua hương vị đậm đà chốn quê nhà: Con lại về leo cây khế sau vườn Ăn trái khế chua mỉm cười nhắm mắt. (Sau ngày chiến thắng) Quê hương ngọt múi sầu riêng chín Những chiếc xuồng vui chở ánh trăng. (Có một mùa xuân đẹp đã về) Ôi ngọn khói hòa bình thơm mùi cỏ mật quê hương! (Vì một em gái ngã xuống giữa ngày 28-1- 1973) Anh biết mùa này thơm chín khắp nơi Gió, nắng quê ta đã ngọt ngào chất mật Ngọt cả lòng em, con thoi đưa khách Đi khắp đất trời vẫn nhớ mùa thơm. (Mùa thơm) Mảnh đất đồng bằng ngọt mía, vàng cam Gợi nhớ, gợi thương những chân trời cũ Đuốc rừng Ba Tơ – đắng, lạt canh đu đủ Đêm Hàm Luông, cá nhảy trắng khoang xuồng. (Một mặt trời đỏ rực) Hương vị ngọt ngào của quê hương như thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn nhà thơ để rồi bật lên thành tiếng thơ ngọt lịm, trong trẻo. Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Giang Nam còn gắn liền với những tình cảm thật cụ thể: tình mẹ con, tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa. Đọc thơ Giang Nam, người đọc nhận thấy ông ghi lại rất đúng, rất sâu, rất cảm động tình mẹ con gắn liền với tình yêu quê hương đất nước [116, tr. 316]. Thuở còn thơ, chàng trai trong bài “Quê hương” đã từng “có những ngày trốn học – Đuổi bướm cạnh cầu ao – Mẹ bắt được – Chưa đánh roi nào đã khóc”. Khóc vì sợ mẹ đánh đòn đau. Đó là nỗi sợ ngây ngô của trẻ nhỏ. Theo thời gian, chàng trai lớn dần lên, chàng càng thấu hiểu tấm lòng mẹ dành cho con, bởi ông cha ta từng nói “Thương cho roi cho vọt”. Chính vì lẽ đó mà trong nỗi nhớ về những kỷ niệm ngày xưa về quê hương, có nỗi nhớ về tình mẹ: Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi… (Quê hương) Yêu quê hương đâu chỉ bởi cảnh đẹp của quê hương mà yêu quê hương còn bởi ở đó có kỷ niệm khôn nguôi về mẹ. Nhà thơ không nói gì về tình mẹ con, thế nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tình cảm thiêng liêng và sâu nặng ấy qua hình ảnh “trốn học bị đòn roi”. Tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa – những tình cảm riêng tư rất khó được chấp nhận trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Vì vậy, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, trong văn học có rất ít bài thơ viết về tình yêu. Và nếu có chăng thì những bài thơ ấy cũng bị lên án, bị khép vào lỗi “thời đại”. Nhưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì lại có khá nhiều bài thơ đề cập đến tình cảm riêng tư ấy. Nhưng tình yêu trong giai đoạn này lại mang một màu sắc mới, tích cực hơn nhiều. Đọc bài Quê hương, người đọc không thể nào quên mối tình đẹp như thơ trong cảnh quê hương khói lửa của chàng trai cùng cô bé nhà bên có “đôi mắt đen tròn” lay láy cùng miệng cười khúc khích. Nhưng mối tình ấy nhanh chóng bị giết chết bởi sự tàn bạo của kẻ thù, bởi cô gái đã từng vì quê hương đất nước mà đứng lên, vào du kích cầm súng chống ngoại xâm: Giặc bắn em rồi, quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người… Chỉ một tiếng “em ơi!” nhưng chất chứa trong ấy biết bao nhiêu là nỗi đau đớn, xót xa, nỗi uất ức, căm hờn. Và từ đây tình yêu quê hương đất nước được nâng lên một bậc: Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. Tình yêu riêng mất đi đã bồi đắp cho tình yêu quê hương những ý nghĩa mới. Tình yêu quê hương giờ đây không còn giản dị, êm dịu như trước nữa mà giờ đây trong tình yêu còn có cả ý chí căm thù giặc sâu sắc. Ngày nay, yêu quê hương là yêu “từng nắm đất” quê mình đã thấm máu thịt của người thân yêu. Chính vì vậy, tình yêu đối với quê hương giờ đây thật thiêng liêng, sâu nặng. Giang Nam đã diễn tả rất đúng những tình cảm riêng – chung của người cách mạng [116, tr.318]. Tình cảm riêng tư của con người hòa lẫn vào cái lớn lao chung của quê hương. Tất cả như hòa quyện thành một khối thống nhất không thể tách rời. Không nói ra nhưn