Trong những năm gần đây, nuôi trồng thuỷ sản đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt ngành nuôi hải sản đang ngày càng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu thực phẩm của con người, nhất là đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ biển. Với đà gia tăng dân số hiện nay, cũng như nhu cầu đối với thực phẩm chất lượng cao, con người buộc phải chú ý đến nguồn lợi hải sản. Ngoài việc khai thác giống tự nhiên, việc sản xuất giống nhân tạo là vấn đề cần thiết để cung cấp con giống cho ngành nuôi trồng hải sản. Trong quá trình sản xuất giống nhân tạo hiện nay thì việc giải quyết thức ăn tươi sống là khâu then chốt quyết định đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng. Nhìn nhận từ vai trò quan trọng đó thì nhiều loại thức ăn tươi sống được quan tâm nghiên cứu và sản xuất, đặc biệt trong đó phải kể đến Artemia.
Artemia là loại thức ăn rất quan trọng và không thể thiếu được trong nghề nuôi trồng thủy sản, nhất là trong khâu sản xuất giống. Ấu trùng A.franciscana lúc mới nở ở giai đoạn Instar I và Instar II có kích thước nhỏ hơn so với các dòng Artemia khác, là loại thức ăn lý tưởng cho giai đoạn đầu của ấu trùng giáp xác và cá con [5], [7], [9] Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành được gọi là sinh khối. So với nauplii Artemia được ấp nở từ trứng bào xác thì sinh khối Artemia có những ưu điểm vượt trội như: Chi phí thấp, chất lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt sử dụng kích cỡ thích hợp sẽ đảm bảo cân bằng năng lượng tốt hơn trong việc lấy thức ăn và đồng hóa.Vì vậy đây là loại thức ăn phổ biến trong các trại sản xuất giống, trại ương giống hay nuôi vỗ tôm, cá bố mẹ.
77 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thử nghiệm nuôi thu sinh khối Artemia franciscana tại Ninh Ích–Ninh Hòa - Khánh Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thử nghiệm nuôi thu sinh khối Artemia franciscana tại Ninh Ích–Ninh Hòa-Khánh Hòa
LỜI CẢM ƠN
Trong cuộc đời tôi thì 4 năm được làm sinh viên có thể nói là khoảng thời gian đẹp và quan trọng nhất; vì tôi có điều kiện học tập, giao lưu với rất nhiều bạn ở nhiều vùng miền, được truyền đạt nhiều kiến thức từ các thầy cô giỏi và tận tâm. Điều quan trọng nhất là khoảng thời gian đại học tôi được học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ tay nghề để tương lai có một nghề nghiệp ổn định.
Để đạt được kết quả đó, tôi kính gởi lời cảm ơn đến tập thể thầy cô Khoa NTTS thuộc Trường Đại học Nha Trang đã tận tình truyền đạt cho tôi cũng như những sinh viên khác những kiến thức chuyên môn, kiến thức về cuộc sống để tôi có thể vững vàng bước vào đời.
Qua đây tôi kính gởi lời cảm ơn đến các cô chú, anh chị em tại Ninh Ích-Ninh Hòa đã có nhiều giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho tôi trong quá trình thực tập. Xin chân thành cảm ơn KS.Nguyễn Thị Thúy đã giúp đỡ tôi trong vấn đề phân lập và nuôi cấy các loại tảo.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến ThS.Nguyễn Tấn Sỹ, người đã tạo điều kiện về vật chất, kinh phí và tài liệu tốt nhất cho tôi làm thực tập. Ngoài ra, sự hướng dẫn tận tình của thầy là sự động viên lớn cho tôi vượt khó khăn để thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gởi lời chúc sức khỏe, thành công đến cha mẹ, thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
Sinh viên thực hiện
Phan Thành Đông
MỤC LỤC Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Ý nghĩa
NTTS
Nuôi trồng thủy sản
DO
Hàm lượng oxy hòa tan
ppt
Tỷ lệ phần nghìn
ppm
Phần triệu
HUFA
Hàm lượng Acid béo không no bậc cao.
L
Lít
mL
Mililít
tb
Tế bào
%
Tỉ lệ phần trăm
N
Nauplii
g
gam
kg
kilogam
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Kết quả ấp nở thực tế của trứng A.franciscana 29
Bảng 3.2: Điều kiện môi trường các ao nuôi trước khi thả Nauplii 32
Bảng 3.3: Một số yếu tố môi trường các ao nuôi 37
Bảng 3.4: Tăng trưởng về chiều dài (mm) của A.franciscana ở các ao. 42
Bảng 3.5: Tốc độ tăng trưởng bình quân/ngày (mm/ngày) của A.franciscana 43
Bảng 3.6: Tỉ lệ sống (%) của A.franciscana ở các ao thí nghiệm 44
Bảng 37: Năng suất sinh khối của các ao thí nghiệm 48
Bảng 3.8: Hiệu quả kinh tế trên 1ha nuôi thu sinh khối Artemia 51
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Trang
Hình 1.1: Artemia franciscana 4
Hình1.2: Vòng đời phát triển của Artemia (Jumalon et al., 1982)[18] 7
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 19
Hình 2.2: Sơ đồ ao thí nghiệm 20
Hình 2.3: Máy đo YSI, Khúc xạ kế và nhiệt kế 21
Hình 2.4: Vị trí thu mẫu trong ao 22
Hình 3.1: Cải tạo ao nuôi 27
Hình 3.2: Kết quả gây màu nước 29
Hình 3.3: Tăng trưởng về chiều dài (mm) của A.franciscana ở các ao . 42
Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng trung bình /ngày (mm/ngày) của Artemia 43
Hình 3.5: Tỉ lế sống (%) của A.franciscana ở các ao thí nghiệm. 44
Hình 3.6: Gia tăng mật độ quần thể trong ao nuôi thí nghiệm. 46
Hình 3.7: Thu sinh khối Artemia 49
Hình 3.8: Sinh khối A.franciscana chuẩn bị đem đi bảo quản 50
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nuôi trồng thuỷ sản đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt ngành nuôi hải sản đang ngày càng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu thực phẩm của con người, nhất là đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ biển. Với đà gia tăng dân số hiện nay, cũng như nhu cầu đối với thực phẩm chất lượng cao, con người buộc phải chú ý đến nguồn lợi hải sản. Ngoài việc khai thác giống tự nhiên, việc sản xuất giống nhân tạo là vấn đề cần thiết để cung cấp con giống cho ngành nuôi trồng hải sản. Trong quá trình sản xuất giống nhân tạo hiện nay thì việc giải quyết thức ăn tươi sống là khâu then chốt quyết định đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng. Nhìn nhận từ vai trò quan trọng đó thì nhiều loại thức ăn tươi sống được quan tâm nghiên cứu và sản xuất, đặc biệt trong đó phải kể đến Artemia.
Artemia là loại thức ăn rất quan trọng và không thể thiếu được trong nghề nuôi trồng thủy sản, nhất là trong khâu sản xuất giống. Ấu trùng A.franciscana lúc mới nở ở giai đoạn Instar I và Instar II có kích thước nhỏ hơn so với các dòng Artemia khác, là loại thức ăn lý tưởng cho giai đoạn đầu của ấu trùng giáp xác và cá con [5], [7], [9]… Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành được gọi là sinh khối. So với nauplii Artemia được ấp nở từ trứng bào xác thì sinh khối Artemia có những ưu điểm vượt trội như: Chi phí thấp, chất lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt sử dụng kích cỡ thích hợp sẽ đảm bảo cân bằng năng lượng tốt hơn trong việc lấy thức ăn và đồng hóa.Vì vậy đây là loại thức ăn phổ biến trong các trại sản xuất giống, trại ương giống hay nuôi vỗ tôm, cá bố mẹ.
Điều kiện tự nhiên khu vực Ninh Hòa-Khánh Hòa có nhiều thuận lợi và phù hợp cho nuôi sinh khối Artemia. Tuy nhiên, cho đến nay các công trình nghiên cứu và nuôi thử nghiệm đối tượng này ở Khánh Hòa chỉ mới được thực hiện tại Cam Ranh và Đồng Bò (Nha Trang), hiện chưa có một nghiên cứu nào về nuôi sinh khối Artemia tại địa phương này. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu trước đây tại Khánh Hòa còn nhiều thiếu sót nên chưa có một mô hình hoàn chỉnh nhất để nuôi đối tượng này trên diện rộng. Xuất phát từ yêu cầu trên và được sự đồng ý của Khoa NTTS Trường Đại học Nha Trang tôi tiến hành thực hiện đề tài “Thử nghiệm nuôi thu sinh khối Artemia franciscana tại Ninh Ích–Ninh Hòa-Khánh Hòa”.
Mục tiêu đề tài:
Thử nghiệm nuôi và xây dựng quy trình nuôi thu sinh khối Artemia franciscana trong ao đất tại Ninh Hòa-Khánh Hòa.
Nội dung đề tài:
Kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi và thả giống.
Kỹ thuật chăm sóc và quản lý ao nuôi.
Kỹ thuật thu hoạch và bảo quản sinh khối Artemia sau thu hoạch.
Ý nghĩa đề tài:
Đề tài kết hợp với một số đề tài khác sẽ dần hoàn thiện quy trình nuôi sinh khối Artemia franciscana tại Khánh Hòa.
Trong khoảng thời gian thực hiện đề tài, mặc dù bản thân tôi đã hết sức cố gắng vượt qua mọi khó khăn nhưng vì một số điều kiện khách quan như thời tiết hay điều kiện cơ sở vật chất cùng với năng lực và kiến thức có hạn nên kết quả đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô và các bạn có những ý kiến đóng ghóp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm sinh học của Artemia.
1.1.1. Hệ thống phân loại và đặc điểm phân bố
Artemia thuộc nhóm giáp xác có hệ thống phân loại như sau:
Giới (Kingdom): Động vật (Animalia)
Ngành(Phylum): Chân khớp (Arthropoda)
Lớp ( Class): Giáp xác (Crustacea)
Lớp phụ (Subclass): Chân mang (Branchiopoda)
Bộ (Order): Anostraca
Họ (Family): Artemiidae Grokwski, 1895
Giống (Genus): Artemia, Leach 1819
Loài (Species): Artemia franciscana Kellog, 1906[4].
Tên thường gọi: Artemia
Tên tiếng anh: Brine shrimp [17][20]
A.franciscana không phân bố tự nhiên ở Việt Nam, tuy nhiên hiện nay được nuôi rộng rãi tại Vĩnh Châu và Bạc Liêu. Đây là loài có nguồn gốc từ Mỹ (San Francisco Bay, USA) sau khi du nhập vào Việt Nam và đã thích nghi dần trở thành loài bản địa của nước ta.
1.1.2. Hình thái
Artemia thường có thân nhỏ, dài khoảng 1,2 – 1,5cm. Artemia có thân phân đốt rõ rệt gồm 3 phần: đầu, ngực và bụng, không có giáp đầu ngực[5].
Chính giữa phía trước đầu có mắt đơn, hai bên có đôi cuống mắt kép. Đầu có 5 đôi phần phụ. Đôi xúc giác thứ 2 của con cái con đực khác nhau. Ở con cái chỉ là một mấu lồi nhỏ. Ở con đực là thuỳ bám, thuỳ to khoẻ dùng để túm và cưỡi con cái trước khi giao cấu. Hàm lớn, hàm nhỏ 1 và 2 cấu thành miệng [5].
Phần ngực có 11 đốt và 11 đôi chân ngực; chân ngực có dạng bản rộng gồm lá trong, lá ngoài và lá quạt cấu thành. Giữa lá quạt và lá ngoài có một mảnh nhỏ mềm mại đó là mang–cơ quan hô hấp của Artemia. Chân ngực phát triển và có 3 chức năng: bơi lội, lọc thức ăn và hô hấp. [5].
Phần bụng có 8 đốt, không có chân phụ. Ở con cái đốt 1 và đốt 2 của phần bụng kết hợp với nhau hình thành nang trứng. Ở con đực hình thành đôi cơ quan giao cấu. Đốt cuối cùng phần bụng có chẽ đuôi dẹt và bằng, xung quanh có nhiều tiêm mao, đuôi lớn hay nhỏ, tiêm mao nhiều hay ít thay đổi theo sự biến đổi của độ mặn. Độ mặn càng cao, đuôi thu nhỏ lại. [5].
Hình 1.1: Artemia franciscana
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng của Artemia
Reeve (1963) đã nghiên cứu về tính ăn của Artemia với thí nghiệm sử dụng các loại tảo và mật độ tảo khác nhau để xác định tính ăn lọc của chúng và kết luận Artemia là loại sinh vật ăn lọc không chọn. [4],[10]
Nghiên cứu về tập tính bắt mồi và loại thức ăn của Artemia, một số tác giả cho rằng Artemia là loại ăn lọc không chọn lựa, thức ăn của chúng là vi tảo, mùn bả hữu cơ, vi khuẩn. Tuy nhiên kích thước của thức ăn là yếu tố giới hạn khả năng lọc thức ăn của Artemia, chúng chỉ lọc được thức ăn có kích thước nhỏ hơn 50µm (Sorgeloos et al., 1986). [4]
Do vậy, một số nghiên cứu về sử dụng vi tảo làm thức ăn trong nuôi sinh khối Artemia đã được thực hiện trong những năm sau đó.
Các sinh cảnh tự nhiên có hiện diện của Artemia cho thấy sự có mặt của chuỗi thức ăn đơn giản và rất ít thành phần giống loài tảo. Artemia thường hiện diện ở nồng độ muối cao mà ở nồng độ muối này hiếm gặp các loài tôm, cá dữ và các động vật cạnh tranh thức ăn khác như luân trùng, giáp xác nhỏ ăn tảo. Ở các sinh cảnh này nhiệt độ, thức ăn, nồng độ muối là những yếu tố chính ảnh hưởng đến mật độ quần thể Artemia hoặc ngay cả đến sự vắng mặt tạm thời của chúng.[4]
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối hợp phân chuồng (chủ yếu là phân gà) kết hợp với phân hữu cơ như Urea, NPK,… để gây màu trực tiếp trong ao nuôi Artemia hoặc gián tiếp ngoài ao bón phân (ao nuôi tảo) trước khi cấp nước xanh vào trong ao nuôi. Artemia có thể sử dụng trực tiếp phân gà và các phân hữu cơ khác khi bón vào ao nuôi. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp vào ao hàng ngày thiếu hụt nông dân còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành… để duy trì quần thể.[9]
1.1.4. Khả năng thích nghi với điều kiện sống của Artemia
A.franciscana cũng như các loài khác trong giống Artemia là sinh vật có tính rộng muối, chúng sống được trong môi trường nước lợ (vài phần ngàn) đến nước mặn bão hoà (250ppt)[20]. Tuỳ theo điều kiện môi trường mà chúng có đặc điểm sinh trưởngvà sinh sản khác nhau.
Artemia được tìm thấy trên 500 hồ nước mặn và ruộng muối trên thế giới. Artemia được tìm thấy chủ yếu trong những ao hồ có nồng độ muối cao (80ppt - 120ppt)[20], đây cũng là ngưỡng chịu đựng cao nhất về nồng độ muối của các sinh vật dữ. Từ 250 ppt trở lên mật độ Artemia giảm và có thể chết hàng loạt [7] mặc dù chúng có thể sống ở nồng độ muối cao hơn nhưng nhu cầu về năng lượng để điều hoà áp suất thầm thấu tăng làm ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng và sinh sản của chúng, thậm chí chúng bị đói và bị chết do môi trường trở nên độc và việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn.
Mặc dù Artemia có thể sống tốt trong môi trường nước biển tự nhiên nhưng do Artemia không có cơ chế chống lại sinh vật dữ (cá, tôm…) và cạnh tranh với các loài ăn lọc khác nên chúng có một cơ chế thích nghi rất tốt với độ mặn cao (80 ppt – 120 ppt), mà hầu như các loài sinh vật dữ và sinh vật cạnh tranh không thể tồn tại.
Nhiệt độ cũng là một trong những yếu tố môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng và sinh sản của Artemia. Theo Nguyễn Thị Ngọc Anh và Nguyễn Văn Hòa (2004)[4], khi nhiệt độ thấp dưới 20oC Artemia sinh trưởng chậm hoặc chết rải rác, khi nhiệt độ lên cao trên 36oC Artemia có thể chết rải rác hoặc chết hàng loạt, sức sinh sản giảm và khả năng phục hồi quần thể chậm. Khi nuôi Artemia ở phòng thí nghiệm (nhiệt độ ổn định) cũng đã tìm thấy: ở nhiệt độ 30oC số lứa đẻ con (nauplii) cao gấp chín lần so với nuôi ở nhiệt độ 26oC Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2000. Đối với Artemia dòng Vĩnh Châu-Việt Nam có đặc điểm thích nghi khá cao, đặc biệt với nhiệt độ, chúng có thể tồn tại được ở nhiệt độ 38-41oC, thậm chí 42oC [7].
1.1.5. Đặc điểm sinh trưởng và vòng đời của Artemia
Theo Sorgeloos (1980) Artemia có vòng đời ngắn (ở điều kiện tối ưu Artemia có thể phát triển thành con trưởng thành và tham gia sinh sản sau 7-8 ngày nuôi). Trong quần thể Artemia luôn có hai hình thức sinh sản là đẻ con và đẻ trứng; sức sinh sản cao (trung bình 1500-2500 phôi). [19], [10]
Sự đẻ con (Ovoviviparity): trứng thụ tinh sẽ phát triển thành ấu trùng bơi lội tự do và được con cái phóng thích ra ngoài môi trường nước.
Sự đẻ trứng (Oviparity): các phôi chỉ phát triển đến giai đoạn phôi vị (gastrula) và sẽ được bao bọc bằng một lớp vỏ dày (được tiết ra từ tuyến vỏ trong tử cung) tạo thành trứng nghỉ (cyst) hay còn gọi là sự “tiềm sinh” (diapause) và được con cái sinh ra. [9]
Lượng ôm trứng của con cái khoảng từ 70 – 300 trứng, nếu gây nuôi trong phòng thí nghiệm thì chỉ khoảng 30 – 40 trứng. [4]
Theo Sorgeloos và ctv.,,1980; Jumalon và ctv., 1982,… Artemia có vòng đời phát triển như sau:
Hình1.2: Vòng đời phát triển của Artemia (Jumalon et al., 1982)[18]
Ngoài tự nhiên, Artemia đẻ trứng bào xác nổi trên mặt nước và được sóng gió thổi giạt vào bờ. Các trứng nghỉ này ngưng hoạt động trao đổi chất và ngưng phát triển khi được giữ khô. Nếu cho vào nước biển, trứng bào xác có hình cầu lõm sẽ hút nước, phồng to. Lúc này, bên trong trứng, sự trao đổi chất bắt đầu. Sau khoảng 20 giờ, màng nở bên ngoài nứt ra (breaking) và phôi xuất hiện.
Phôi được màng nở bao quanh. Trong khi phôi đang treo bên dưới vỏ trứng (giai đoạn bung dù = umbrella) sự phát triển của ấu trùng được tiếp tục và một thời gian ngắn sau đó màng nở bị phá vỡ (giai đoạn nở = hatching) và ấu thể Artemia được phóng thích ra ngoài.[9]
Ấu trùng Artemia mới nở (Instar I), có chiều dài 400-500 μm có màu vàng cam, có mắt Nauplius màu đỏ ở phần đầu và ba đôi phụ bộ (anten I có chức năng cảm giác, anten II có chức năng bơi lội và lọc thức ăn và bộ phận hàm dưới để nhận thức ăn). Mặt bụng ấu trùng được bao phủ bằng mảnh môi trên lớn (để nhận thức ăn: chuyển các hạt từ tơ lọc thức ăn vào miệng). Ấu trùng giai đoạn này không tiêu hóa được thức ăn, vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng.[9]
Sau khoảng 8-10 giờ từ lúc nở (phụ thuộc vào nhiệt độ), ấu trùng lột xác thành giai đoạn II (Instar II). Lúc này, chúng có thể tiêu hóa các hạt thức ăn cỡ nhỏ (tế bào tảo, vi khuẩn) có kích thước từ 1 đến 50 μm nhờ vào đôi anten II, và lúc này bộ máy tiêu hóa đã hoạt động.[9]
Ấu trùng phát triển và biệt hóa qua 15 lần lột xác. Các đôi phụ bộ xuất hiện ở vùng ngực và biến thành chân ngực. Mắt kép xuất hiện ở hai bên mắt. Từ giai đoạn 10 trở đi, các thay đổi về hình thái và chức năng quan trọng bắt đầu: anten mất chức năng vận chuyển và trải qua sự biệt hóa về giới tính. Ở con đực chúng phát triển thành càng bám, trong khi anten của con cái bị thoái hóa thành phần phụ cảm giác. Các chân ngực được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng. Các đốt chân chính và các nhánh chân trong (vận chuyển và lọc thức ăn) và nhánh chân ngoài dạng màng (mang).
Artemia trưởng thành dài khoảng 10 mm (tùy dòng), cơ thể thon dài với hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng, anten cảm giác và 11 đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao cấu ở phần sau của vùng ngực. Đối với con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay sau đôi chân ngực thứ 11.
Tuổi thọ trung bình của cá thể Artemia trong các ao nuôi ở ruộng muối khoảng 40-60 ngày tùy thuộc điều kiện môi trường [3]. Tuy nhiên, quần thể Artemia trong ruộng muối vẫn tiếp tục duy trì ngay cả trong mùa mưa khi độ mặn trong ao nuôi giảm thấp (60ppt) nếu ruộng nuôi không bị địch hại (tôm, cá, copepoda...) tấn công và vẫn được cung cấp đầy đủ thức ăn [15]. Vì thế nên có thể kéo dài vụ nuôi nếu dự trữ đủ nguồn nước mặn trong hệ thống ao chứa hoặc khi độ mặn giảm thấp đến 60ppt thì phải quản lý tốt hệ thống ao nuôi kiểm soát và khống chế sự phát triển của các địch hại của Artemia. [10]
1.2. Vai trò của Artemia trong nuôi trồng thủy sản
Artemia được biết đến vào những năm đầu thập niên 30 khi người ta phát hiện ra chúng là loài thức ăn sống có giá trị dinh dưỡng cao cho việc ương giống các loại thuỷ sản như tôm cá, động vật thân mềm. Seale (1930) và Rollefeson (1939) đã khám phá ra ấu trùng Nauplius của Artemia là một loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng tôm cá.[7]Artemia có thể đáp ứng rất tốt nhu cầu dinh dưỡng cho giai đoạn ấu trùng của phần lớn các loại tôm cá.
Hiện nay các trại sản xuất giống, ấu trùng Artemia được sử dụng rộng rãi nhất bởi những lý do sau. [5]
Giá trị dinh dưỡng cao (protein, acid béo không no HUFA cao).
Sẵn có trên thị trường dưới dạng trứng bào xác (còn gọi là cyst).
Không phụ thuộc mùa vụ, thời tiết và có thể thu với số lượng lớn (trứng bào xác nở sau 24giờ tính từ khi ấp).
Có thể khống chế được bệnh cho ấu trùng nuôi (xử lý ấu trùng Artemia trước khi cho ăn hoặc sử dụng chúng như một bao sinh học để chứa các chất dinh dưỡng đặc biệt là thuốc phòng trị bệnh chuyển tới ấu trùng nuôi).[9]
Artemia tiền trưởng thành và trưởng thành được gọi là sinh khối có giá trị dinh dưỡng cao hơn Artemia mới nở từ trứng và được sử dụng là thức ăn phổ biến trong các trại sản xuất giống, trại ương giống hay nuôi vỗ tôm, cá bố mẹ.
Artemia trưởng thành có giá trị dinh dưỡng rất cao (lớp vỏ giáp mỏng hơn 1µm), chiếm 60% lượng đạm và rất giàu amino acid tính trên trọng lượng khô. Thêm vào đó Artemia còn chứa một lượng đáng kể vitamin, sắc tố. Sử dụng sinh khối Artemia trưởng thành có thể gây phát dục cho tôm bố mẹ mà không cần cắt mắt. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh việc sử dụng Artemia sinh khối để nuôi vỗ tôm, cá bố mẹ đã kích thích sự thành thục của buồng trứng, gia tăng số lần đẻ và cải thiện chất lượng ấu trùng. [5]
Artemia có thân mềm với lớp vỏ mỏng, chúng bơi lội chậm chạp trong môi trường nước có màu sắc hấp dẫn, trong điều kiện nước ngọt chúng có thể sống khoảng 8 giờ. Chính vì vậy, Artemia là loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng các loại tôm cá ở giai đoạn phát triển sớm. Artemia không chỉ có giá trị sử dụng tiện lợi mà còn có giá trị dinh dưỡng cao: hàm lượng protein chiếm 62% và 27% lipid (tính theo trọng lượng khô)…[5].
Các đặc điểm trên kết hợp với kỹ thuật làm giàu hoá sinh học nhằm tăng chất lượng của sinh khối Artemia, làm thức ăn tươi sống tối ưu cho ương nuôi tôm, cá và có thể thay thế trứng nước và trùn chỉ (nguồn thức ăn có nhiều mầm bệnh) trong nghề nuôi cá cảnh nhiệt đới.[5]
Sinh khối Artemia còn được dùng để làm thành phần hoặc chất kích thích trong thức ăn chế biến cho ấu trùng tôm, cá. Tuy nhiên khá phổ biến là dùng sinh khối đông lạnh Artemia để thay thế cho ấu trùng Artemia mới nở trong sản xuất giống tôm he (Marsupenaneus japonicus). Các nhà nghiên cứu cũng nêu lên rằng để sản xuất 1 triệu con tôm he giống chỉ cần 1,8kg bột sinh khối Artemia. [5]
Trong nuôi Artemia thu sinh khối thì Artemia trưởng thành được quan tâm nhiều hơn do kích thước lớn hơn 20 lần và khối lượng nặng hơn 500 lần so với ấu trùng Artemia mới nở. Đồng thời thành phần dinh dưỡng của Artemia trưởng thành chứa đầy đủ các acid amine cần thiết như: Histidine, Methionine, Phenylalanine và Threonine mà ở ấu trùng nauplius không có đầy đủ.[5]
Hiện nay việc sử dụng sinh khối Artemia vẫn chưa được chấp nhận ở mức độ công nghiệp do hạn chế về tính thời vụ và số lượng sinh khối tươi cũng như sinh khối đông lạnh, chi phí sản xuất cao, chất lượng biến động. Ở Việt Nam, mức độ sử dụng sinh khối vẫn chỉ ở mức độ thí nghiệm và thử nghiệm là thức ăn cho ấu trùng tôm càng xanh, tôm cua biển và cá cảnh ở dưới dạng tươi sống, đông lạnh và thức ăn chế biến. [1]
1.3. Hoạt động nuôi sinh khối A.franciscana.
Artemia được sử dụng làm thức ăn để ương nuôi ấu trùng các động vật thủy sản trên thế giới bắt đầu từ những năm 1930. Trong những năm 1940 hầu hết lượng trứng bào xác của Artemia có trên thị trường đều được thu vớt từ các hồ nước mặn tự nhiên. Vào đầu những năm 1950, do Artemia có giá trị cao nên ngành sản xuất trứng bào xác Artemia được thiết lập và trứng Artemia đã được thương mại hóa trên thị trường thế giới. [7]
Trong giai đoạn gần đây nghề nuôi tôm, cá biển ở nhiều nước trên thế giới phát triển mạnh (Thái lan, Trung Quốc, philippin…) nên nhu cầu trứng bào xác và sinh khối Artemia ngày càng tăng. Do đó nhiều quốc gia bắt đầu quan tâm đến n