1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi một người biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ
xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những
người có liên quan đến họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh doanh, thương m ại Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người có liên quan đến người biệt tích trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định các chủ thể này có quy ền y êu
cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Vấn đề giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần
đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 03-NCLP ngày 03/3/1966 của
TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Sau đó, yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết được quy định tại Điều 10 PLTTGQCVADS và Nghị quyết
số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về
hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS. Về cơ bản, việc xác định công dân mất tích
hoặc là đã chết theo các quy định của pháp luật TTDS trước thời điểm BLTTDS
được banh hành đều được thực hiện theo một thủ tục chung không tách thành thủ
tục việc dân sự và thủ tục án dân sự.
BLTTDS được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15/6/2004 lần đầu tiên đã đưa quy định thủ tục giải quyết việc
dân sự pháp điển hóa chính thức trong luật. Yêu cầu tuy ên bố một người mất tích
hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục độc lập quy
định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của BLTTDS. Có thể nói,
đây là một bước đột phá về thủ tục tố tụng, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc
giải quyết nhanh, giản lược các việc mang tính chất đặc trưng là không có tranh
chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có y êu cầu Tòa án công nhận hoặc không
công nhận một sự kiện pháp lý là căn c ứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự.
Bên cạnh những ưu điểm đạt được của việc áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
trong việc giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết, thực tiễn
thụ lý và giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết đã và đang
đặt ra khá nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ cũng như cần có sự hướng dẫn
thống nhất. Mặc dù thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã
chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLTTDS, tuy
nhiên phần nhiều các quy định của luật còn mang tính cô đọng, khái quát khá chung
chung, thiếu vắng tính cụ thể và chi tiết, cũng như chưa có sự thống nhất quan điểm
dẫn tới các cách hiểu khác nhau. Điều này không thể tránh khỏi sự "tùy tiện chủ
quan" trong việc áp dụng luật. Chính từ thực trạng này đòi hỏi phải nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về thủ tục giải quyết y êu cầu tuy ên bố một người
mất tích hoặc là đã chết nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam.
Với những lý do đó, việc nghiên cứu ″Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam″ có ý nghĩa
khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta chưa có một công trình
nào nghiên cứu chuy ên sâu và có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố
một người mất tích hoặc là đã chết. Do trước đây, thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên
bố một người mất tích hoặc là đã chết thường được giải quyết trong cùng một vụ án
ly hôn ho ặc một vụ án dân sự khác, cho đến thời điểm BLTTDS có hiệu lực, thủ tục
này mới trở thành một thủ tục độc lập. Ở những khía cạnh khác nhau, cho đến nay
đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến thủ tục này đã được một số tác giả
đề cập đến như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: ″Cơ sở lý luận và thực
tiễn thi hành quy định tại phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật
tố tụng dân sự Việt Nam″ của Viện khoa học xét xử - TANDTC; Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường: "Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân
dân" của Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học:
″Trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự″, Lê Thanh Huyền, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006. Một số các bài viết
trên các tạp chí khoa học pháp lý như: "Xác định thời điểm chết trong trường hợp
tuyên bố một người đã chết theo quy định của pháp luật dân sự", Lê Hồng Hải, Tạp
chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2004 ; ″Một số quy định chung về thủ tục giải quyết
việc dân sự″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2005; ″Những vấn
đề cơ bản về thủ tục giải quyết một số việc dân sự cụ thể″, Tưởng Duy Lượng, Tạp
chí TAND, số 11/2005; "Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự", Lê Thu Hà, Tạp chí TAND, s ố 12/2006; "Tuyên bố một người là đã
chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005", Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí TAND số
11/2009 . Tuy vậy, các công trình trên m ới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một
cách khái quát về thủ tục giải quyết việc dân sự, tiếp cận dưới một vài góc độ của
thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Với tình
hình trên, đề tài "Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam", lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ
lu ận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính
logíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên c ứu khoa học đã
được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích:
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết
trong TTDS nói riêng, tìm hiểu thực tế áp dụng luật thực định để giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong hoạt động xét xử của Tòa án;
Hai là, chỉ ra những điểm c òn thiếu hoặc chưa hợp lý trong các quy định về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết của pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết y êu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là
đã chết.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau để thực hiện được mục tiêu đề tài:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết
việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích
hoặc là đã chết nói riêng;
- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật TTDS về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS
Việt Nam;
- Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết
yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết, chỉ ra những nội dung, những
vấn đề còn thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định
của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải
quy ết y êu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, trên cơ sở đó
đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên
bố một người mất tích hoặc là đã chết; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của
TAND trong những năm gần đây.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung
nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết y êu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy
định cụ thể về thủ tục này, luận văn có đề cập nghiên cứu về thủ tục giải quyết các
yêu cầu về dân sự nói chung cũng như nghiên cứu khái quát các quy định của
BLDS về tuy ên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên,
cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và
hệ thống về thủ tục giải quyết y êu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết
theo quy định của BLTTDS Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát
thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết
quả thống kê. nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam - một vấn đề
mới, đã và đang gặp nhiều vướng mắc từ thực tiễn xét xử. Luận văn có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn sau đây:
Thứ nhất: Lần đầu tiên thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất
tích hoặc là đã chết được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn.
Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công tác
xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ
tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Từ đó
đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTDS Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy
ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư liệu tốt để các
nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học TTDS. Luận văn là một công
trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định cũng có thể
giúp ích phần nào cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Kiểm
sát viên. ) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các
quy định của pháp luật khi áp dụng chế định thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết
trong TTDS Việt Nam nói riêng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên
bố một người mất tích hoặc là đã chết
Chương 2: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là
đã chết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thủ tục giải quyết yêu cầu tuy ên bố một người mất tích hoặc là đã chết
và một số kiến nghị
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi một người biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ
xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những
người có liên quan đến họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh doanh, thương mại… Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người có liên quan đến người biệt tích trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định các chủ thể này có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Vấn đề giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần
đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 03-NCLP ngày 03/3/1966 của
TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Sau đó, yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết được quy định tại Điều 10 PLTTGQCVADS và Nghị quyết
số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về
hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS. Về cơ bản, việc xác định công dân mất tích
hoặc là đã chết theo các quy định của pháp luật TTDS trước thời điểm BLTTDS
được banh hành đều được thực hiện theo một thủ tục chung không tách thành thủ
tục việc dân sự và thủ tục án dân sự.
BLTTDS được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15/6/2004 lần đầu tiên đã đưa quy định thủ tục giải quyết việc
dân sự pháp điển hóa chính thức trong luật. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục độc lập quy
định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của BLTTDS. Có thể nói,
đây là một bước đột phá về thủ tục tố tụng, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc
giải quyết nhanh, giản lược các việc mang tính chất đặc trưng là không có tranh
chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không
công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự...
2
Bên cạnh những ưu điểm đạt được của việc áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, thực tiễn
thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết đã và đang
đặt ra khá nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ cũng như cần có sự hướng dẫn
thống nhất. Mặc dù thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã
chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLTTDS, tuy
nhiên phần nhiều các quy định của luật còn mang tính cô đọng, khái quát khá chung
chung, thiếu vắng tính cụ thể và chi tiết, cũng như chưa có sự thống nhất quan điểm
dẫn tới các cách hiểu khác nhau. Điều này không thể tránh khỏi sự "tùy tiện chủ
quan" trong việc áp dụng luật. Chính từ thực trạng này đòi hỏi phải nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người
mất tích hoặc là đã chết nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam.
Với những lý do đó, việc nghiên cứu ″Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam″ có ý nghĩa
khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta chưa có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết. Do trước đây, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc là đã chết thường được giải quyết trong cùng một vụ án
ly hôn hoặc một vụ án dân sự khác, cho đến thời điểm BLTTDS có hiệu lực, thủ tục
này mới trở thành một thủ tục độc lập. Ở những khía cạnh khác nhau, cho đến nay
đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến thủ tục này đã được một số tác giả
đề cập đến như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: ″Cơ sở lý luận và thực
tiễn thi hành quy định tại phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật
tố tụng dân sự Việt Nam″ của Viện khoa học xét xử - TANDTC; Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường: "Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân
dân" của Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học:
″Trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
3
sự″, Lê Thanh Huyền, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006. Một số các bài viết
trên các tạp chí khoa học pháp lý như: "Xác định thời điểm chết trong trường hợp
tuyên bố một người đã chết theo quy định của pháp luật dân sự", Lê Hồng Hải, Tạp
chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2004; ″Một số quy định chung về thủ tục giải quyết
việc dân sự″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2005; ″Những vấn
đề cơ bản về thủ tục giải quyết một số việc dân sự cụ thể″, Tưởng Duy Lượng, Tạp
chí TAND, số 11/2005; "Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự", Lê Thu Hà, Tạp chí TAND, số 12/2006; "Tuyên bố một người là đã
chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005", Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí TAND số
11/2009 …. Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một
cách khái quát về thủ tục giải quyết việc dân sự, tiếp cận dưới một vài góc độ của
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Với tình
hình trên, đề tài "Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam", lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ
luận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính
logíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã
được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích:
Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
trong TTDS nói riêng, tìm hiểu thực tế áp dụng luật thực định để giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong hoạt động xét xử của Tòa án;
Hai là, chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chưa hợp lý trong các quy định về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết của pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết.
4
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau để thực hiện được mục tiêu đề tài:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết
việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết nói riêng;
- Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật TTDS về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS
Việt Nam;
- Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, chỉ ra những nội dung, những
vấn đề còn thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định
của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, trên cơ sở đó
đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc là đã chết; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của
TAND trong những năm gần đây.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung
nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích
hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy
định cụ thể về thủ tục này, luận văn có đề cập nghiên cứu về thủ tục giải quyết các
yêu cầu về dân sự nói chung cũng như nghiên cứu khái quát các quy định của
BLDS về tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên,
cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và
5
hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
theo quy định của BLTTDS Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát
thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết
quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam - một vấn đề
mới, đã và đang gặp nhiều vướng mắc từ thực tiễn xét xử. Luận văn có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn sau đây:
Thứ nhất: Lần đầu tiên thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất
tích hoặc là đã chết được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn.
Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công tác
xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Từ đó
đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTDS Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy
ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư liệu tốt để các
nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học TTDS. Luận văn là một công
trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định cũng có thể
6
giúp ích phần nào cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Kiểm
sát viên...) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các
quy định của pháp luật khi áp dụng chế định thủ tục giải quyết việc dân sự nói
chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
trong TTDS Việt Nam nói riêng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố một người mất tích hoặc là đã chết
Chương 2: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là
đã chết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết
và một số kiến nghị
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI MẤT TÍCH HOẶC LÀ ĐÃ CHẾT
1.1. Khái quát về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự
1.1.1. Khái niệm việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự
Trong các pháp lệnh tố tụng trước thời điểm BLTTDS được ban hành không
có sự phân biệt giữa vụ án với việc dân sự. Tất cả các vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
dù các bên đương sự có tranh chấp hay không có tranh chấp đều gọi chung là vụ án.
Thuật ngữ việc dân sự lần đầu tiên được ghi nhận trong pháp luật TTDS Việt
Nam trong các quy định của BLTTDS. Theo đó, khái niệm việc dân sự được ghi
nhận tại Điều 311 BLTTDS như sau:
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng
có yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là
căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
Các loại việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định
cụ thể để làm căn cứ xác định thẩm quyền theo thủ tục việc dân sự tại các Điều 26,
Điều 28, Điều 30 và Điều 32 BLTTDS. Trong đó, việc yêu cầu tuyên bố một người
mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một
người là đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết là một loại việc
thuộc yêu cầu về dân sự.
Khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS ghi nhận sự phát triển của khoa
học luật TTDS và dấu ấn của sự tham khảo pháp luật TTDS của một số nước trên
thế giới. Chẳng hạn, Điều 25 BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp quy định: ″Thẩm
phán quyết định giải quyết các việc dân sự theo quy định của pháp luật khi có yêu
8
cầu trong trường hợp không có tranh chấp…″. Theo pháp luật TTDS của nước
Cộng hòa Pháp thì việc dân sự được hiểu là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có
tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án giải quyết. BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp
cũng ban hành quy định liệt kê các yêu cầu được giải quyết theo thủ tục việc dân sự,
bao gồm các yêu cầu sau: cải chính giấy tờ hộ tịch (Điều 1051); thay đổi tên (Điều
1055-2); tuyên bố mất tích (Điều 1067); thuận tình ly hôn (Điều 1088); hợp pháp
hóa quan hệ huyết thống (Điều 1151); thay đổi họ của trẻ em sinh ra ngoài giá thú
sau khi bố mẹ cùng khai nhận con (Điều 1153); nhận nuôi con nuôi (Điều 1167) ...
Qua nghiên cứu có thể thấy các việc dân sự theo quy định của BLTTDS nước Cộng
hòa Pháp tương tự như những loại việc dân sự theo quy định của BLTTDS Việt
Nam như yêu cầu tuyên bố công dân mất tích, thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, có một
số loại việc theo quy định của pháp luật Việt Nam được thực hiện theo thủ tục hành
chính tư pháp thì theo BLTTDS nước Cộng hòa Pháp lại được thực hiện theo thủ
tục giải quyết việc dân sự như: nhận nuôi con nuôi, sửa chữa giấy tờ hộ tịch, thay
đổi tên.
Pháp luật TTDS của nước Cộng hòa Liên bang Nga mặc dù không có quy
định thế nào là việc dân sự nhưng tại Phần thứ hai: "Thủ tục tố tụng ở Tòa án cấp sơ
thẩm" BLTTDS được Quốc Hội (Duma) thông qua ngày 23/10/2002 quy định về
bốn loại thủ tục TTDS. Bên cạnh thủ tục rút gọn, thủ tục giải quyết vụ án và thủ tục
giải quyết các vụ án phát sinh từ pháp luật công, còn tồn tại một loại thủ tục tố tụng
thứ tư là thủ tục tố tụng đặc biệt. Thủ tục tố tụng đặc biệt được quy định tại Mục IV
Phần thứ hai, gồm mười hai chương (từ Chương XXVII đến Chương XXXVIII), 57
Điều (từ Điều 262 đến Điều 319). Thủ tục tố tụng đặc biệt được áp dụng để giải
quyết các yêu cầu nhằm xác định các sự kiện có giá trị pháp lý, công nhận hoặc
khôi phục quyền dân sự ... mà về bản chất tương tự như thủ tục giải quyết việc dân
sự được ghi nhận trong pháp luật TTDS Việt Nam. Cụ thể, Điều 262 BLTTDS Liên
bang Nga quy định, Tòa án giải quyết theo thủ tục đặc biệt những vụ việc tương tự
như những loại việc dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam như: yêu cầu
tuyên bố công dân mất tích hoặc là đã chết; yêu cầu hạn chế năng lực hành vi dân
sự của công dân, tuyên bố công dân mất năng lực hành vi dân sự [40, tr. 180-181].
9
Bên cạnh đó, cũng giống như pháp luật TTDS nước Công hòa Pháp, một số loại
việc theo quy định của pháp luật Việt Nam được thực hiện theo thủ tục hành chính
tư pháp thì theo BLTTDS Liên bang Nga lại được thực hiện theo thủ tục TTDS đặc
biêt như: nhận nuôi con nuôi, thay đổi sữa chữa nội dung đăng ký trong sổ đăng ký
hộ tịch, khiếu nại về việc thực hiện hoặc từ chối thực hiện công chứng.
Từ khái niệm việc dân sự tại Điều 311 BLTTDS đến việc tham khảo pháp
luật TTDS của một số quốc gia trên thế giới, việc dân sự được hiểu về bản chất với
các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các đương sự trong việc dân sự không có tranh chấp với nhau về
quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây cũng là một trong những điểm khác biệt lớn nhất
giữa vụ án dân sự và việc dân sự. Trong vụ án dân sự luôn có sự tranh chấp từ đó
hình thành nên hai hoặc nhiều bên đối kháng nhau về mặt quyền và lợi ích, trong
khi đó đối với việc dân sự các bên đương sự không có sự đối kháng. Sự không đối
kháng trong việc dân sự có thể do:
- Các đương sự không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp do các
đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như
những quyền và lợi ích giữa các đương sự và họ cùng yêu cầu Tòa án công nhận sự
thỏa thuận đó [77, tr 8]. Tuy nhiên, việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự giữa các đương sự trong việc dân sự chỉ mang tính tương đối.
- Bản chất việc dân sự là hướng tới xác nhận một sự kiện pháp lý mà từ sự
kiện đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
Thứ hai, không có nguyên đơn và bị đơn trong việc dân sự. Nếu như trong vụ
án dân sự các bên đương sự đối kháng nhau để hình thành nên nguyên đơn và bị
đơn thì trong việc dân sự chỉ có người yêu cầu và người có liên quan. Bản chất của
việc giải quyết việc dân sự là Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện
pháp lý được xác định là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự... chứ không
phải giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự.
Thứ ba, từ yêu cầu của đương sự Tòa án sẽ công nhận hoặc không công nhận
một sự kiện pháp lý mà từ sự kiện đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự; từ
yêu cầu của đương sự Tòa án công nhận quyền và nghĩa vụ dân sự cho họ.
10
Như vậy, bản chất của việc dân sự là không có tranh chấp về quyền và lợi ích
hợp pháp giữa các đương sự do các đương sự đã thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết quyền và lợi ích hợp pháp và yêu cầu Tòa án công nhận giá trị pháp lý của sự
thỏa thuận đó hoặc do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ có một bên đương sự
yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý, công nhận hoặc không công nhận
quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, sự khác biệt giữa việc dân sự với án
dân sự. Chính sự khác biệt về bản chất đó đã hình thành thủ tục tố tụng giải quyết
việc dân sự riêng bên cạnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Theo nghĩa thông thường, thủ tục là ″những thể thức phải làm để đạt được
một kết quả nhất định″ [36, tr. 4] hoặc là ″những việc cụ thể phải làm theo một trật
tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức″ [85, tr 883].
Trong Từ điển Luật học ″thủ tục tố tụng″ được hiểu là ″cách thức trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được thụ lý
hoặc khới tố theo quy định của pháp luật″ [81, tr 729].
Từ khái niệm và bản chất của việc dân sự và khái niệm về thủ tục, thủ tục tố
tụng, có thể rút ra khái niệm thủ tục giải quyết việc dân sự như sau:
Thủ tục giải quyết việc dân sự là cách thức, trình tự Tòa án có thẩm quyền tiến
hành để xem xét, giải quyết các việc dân sự theo quy định của pháp luật TTDS.
Nghiên cứu các quy định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự"
của BLTTDS, thủ tục giải quyết việc dân sự gồm các trình tự sau:
- Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự: Việc dân sự phát sinh
khi cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn
yêu cầu giải quyết việc dân sự tới TAND có thẩm quyền. Đơn yêu cầu có thể nộp
trực tiếp hoặc gửi thông qua đường bưu điện. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu
phải gửi kèm