Loài người đang phải đối mặt với HIV/AIDS, một đại dịch có sức tàn phá chưa từng
thấy trong lịch sử. Từ khi đại dịch xuất hiện, theo thống kê của Tổ chức UNAIDS, cho đến
nay trên thế giới đã có hơn 20 triệu người chết vì AIDS, khoảng 39.4 triệu người đang
sống chung với HIV/AIDS. Cùng với quá trình phá huỷ dần tuổi thọ, sự phát triển kinh tế -xã hội và công cuộc xoá đói giảm nghèo, thì HIV/AIDS đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lực lượng và năng suất lao động. Khi Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI, mỗi người dân
đều hy vọng về một tương lai ổn định, hạnh phúc và tốt lành. Những niềm hy vọng này đã
và đang bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của HIV/AIDS khi đại dịch này tấn công ngày càng
nhiều cá nhân và gia đình ở Việt Nam và ảnh hưởng về mặt kinh tế của HIV/AIDS ngày
càng được nhận thức rõ hơn.
HIV/AIDS là một nguy cơ lớn đối với loài người, đối với các quốc gia, các dân tộc,
đối với mỗi gia đình và mỗi người, HIV/AIDS đang là hiểm hoạ hàng đầu về việc gây ra
chết chóc, nghèo đói lạc hậu, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân
tộc. Có ý kiến cho rằng, AIDS có thể gây ra cả tình trạng mất ổn định về chính trị ở một số
quốc gia như châu Phi chẳng hạn. Ở Việt Nam, cho đến nay (2009), HIV/AIDS đã lan
rộng ở 64 tỉnh, thành phố (= 100%), 93 số huyện, 49% số xã phường với 315.171 người có
HIV còn sống, 29.134 người có AIDS còn sống, 4.418 người đã chết. Nói về tính nghiêm
trọng của tình hình đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam, Chỉ thị 54 ngày 30/11/2005 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng viết: Cho đến nay, “ở nước ta, tình hình lây nhiễm HIV/AIDS
vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu
hướng ngày càng lan rộng”. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao (tiêm chích ma tuý,
mại dâm, tình dục đồng giới ), “HIV/AIDS đang đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính
mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống
nòi”.
118 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4336 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực hiện pháp luật phòng, chống
HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Loài người đang phải đối mặt với HIV/AIDS, một đại dịch có sức tàn phá chưa từng
thấy trong lịch sử. Từ khi đại dịch xuất hiện, theo thống kê của Tổ chức UNAIDS, cho đến
nay trên thế giới đã có hơn 20 triệu người chết vì AIDS, khoảng 39.4 triệu người đang
sống chung với HIV/AIDS. Cùng với quá trình phá huỷ dần tuổi thọ, sự phát triển kinh tế -
xã hội và công cuộc xoá đói giảm nghèo, thì HIV/AIDS đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lực lượng và năng suất lao động. Khi Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI, mỗi người dân
đều hy vọng về một tương lai ổn định, hạnh phúc và tốt lành. Những niềm hy vọng này đã
và đang bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của HIV/AIDS khi đại dịch này tấn công ngày càng
nhiều cá nhân và gia đình ở Việt Nam và ảnh hưởng về mặt kinh tế của HIV/AIDS ngày
càng được nhận thức rõ hơn.
HIV/AIDS là một nguy cơ lớn đối với loài người, đối với các quốc gia, các dân tộc,
đối với mỗi gia đình và mỗi người, HIV/AIDS đang là hiểm hoạ hàng đầu về việc gây ra
chết chóc, nghèo đói lạc hậu, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân
tộc. Có ý kiến cho rằng, AIDS có thể gây ra cả tình trạng mất ổn định về chính trị ở một số
quốc gia như châu Phi chẳng hạn. Ở Việt Nam, cho đến nay (2009), HIV/AIDS đã lan
rộng ở 64 tỉnh, thành phố (= 100%), 93 số huyện, 49% số xã phường với 315.171 người có
HIV còn sống, 29.134 người có AIDS còn sống, 4.418 người đã chết. Nói về tính nghiêm
trọng của tình hình đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam, Chỉ thị 54 ngày 30/11/2005 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng viết: Cho đến nay, “ở nước ta, tình hình lây nhiễm HIV/AIDS
vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu
hướng ngày càng lan rộng”. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao (tiêm chích ma tuý,
mại dâm, tình dục đồng giới…), “HIV/AIDS đang đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính
mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống
nòi”.
Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS nhấn mạnh: “phòng, chống HIV/AIDS
phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài”.
Tại Quảng Ninh, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện đầu tiên vào tháng 6
năm 1994, năm 1996 phát hiện ca nhiễm thứ 2. Đến 31/12/2008 số người nhiễm HIV được
xác định là 6.878 người, số tử vong do AIDS 3.757. Như vậy, đại dịch HIV/AIDS đã
nhanh chóng lan rộng trên khắp địa bàn trong tỉnh, số người nhiễm cả trong 14/14 huyện,
thị, thành phố, 155/186 xã, phường có người nhiễm HIV (số liệu cập nhật tại Trung tâm
Phòng, chống HIV/AIDS Quảng Ninh).
Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS ở Quảng Ninh đã gây ra dư luận xấu và tâm lý lo
ngại, gây bất lợi đối với một tỉnh có tiềm năng du lịch, đang trên đà phát triển và hội nhập.
Trong những năm qua, công tác phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh đã có nhiều cố gắng
nhưng hiệu quả đạt được còn thấp. Công tác truyền thông chưa sâu rộng, chưa phong phú,
đa dạng; còn nhiều người chưa nhận thức hết tính nguy hiểm của đại dịch và cách phòng,
chống cho bản thân và cộng đồng. Cấp uỷ, chính quyền một số địa phương chưa tập trung
chỉ đạo cho ngang tầm với mức độ nghiêm trọng của tình hình, chưa huy động được cả
cộng đồng tham gia phòng, chống. Nhiều tổ chức và cá nhân vẫn đứng ngoài cuộc. Còn có
nhiều nơi phó thác trách nhiệm cho ngành y tế. Đây là một vấn đề y tế - xã hội cấp bách và
nghiêm trọng cho cả nước nói chung, tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu
thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS có ý nghĩa quan trọng và thiết thực.
Việc tác giả chọn Quảng Ninh là nơi tìm hiểu khảo sát thực hiện pháp luật phòng,
chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh là do:
Quảng Ninh là tỉnh trọng điểm về tệ nạn nhiễm HIV/AIDS, mặt khác, chỉ có những
đề tài được nghiên cứu về thực trạng nhiễm HIV/AIDS mà chưa có đề tài khoa học nào về
thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
Với những lý do trên em chọn đề tài “Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở
tỉnh Quảng Ninh” để làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật là một trong những nội dung quan trọng của lý luận chung về
nhà nước và pháp luật nói chung và đối với hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh
Quảng Ninh nói riêng, là một nội dung quan trọng nhằm góp phần bảo đảm các quyền con
người trong bối cảnh đại dịch HIV/AIDS và cũng nhằm phòng ngừa, chăm sóc, điều trị và
giảm thiểu tác động tiêu cực của HIV/AIDS, mà còn là phương thức cơ bản, một giải pháp
có hiệu quả trong phòng, chống HIV/AIDS nói chung, trong dự phòng – bảo vệ sức khoẻ
cộng đồng nói riêng, đưa ra các giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả, hiệu lực thực hiện pháp luật.
Trong thời gian vừa qua ở nước ta đã có một số công trình và bài viết của các nhà khoa
học, nhà quản lý nghiên cứu về HIV/AIDS, nhưng chủ yếu là nghiên cứu dưới góc độ là các
chuyên đề, các báo cáo, hầu như chưa có công trình khoa học nào về vấn đề thực hiện pháp luật
phòng, chống HIV/AIDS cụ thể là:
- Tổ chức Care với chuyên đề: “Chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS tại nhà”
(2003).
- Dự án SMARTWORK Việt Nam hướng dẫn nhà quản lý và công đoàn về chương
trình, chính sách phòng ngừa HIV/AIDS tại nơi làm (2005).
- Viện Nghiên cứu quyền con người viết chuyên đề về “HIV/AIDS và quyền con
người” (năm 2006).
- Viện Nghiên cứu quyền con người viết chuyên đề về “Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người của người nhiễm HIV” (năm 2007).
- Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí như: AIDS và
cộng đồng, Tạp chí của Cục Phòng, chống HIV/AIDS – Bộ Y tế, số 10(117), 2008, Hà
Nội.
- Dự án phòng, chống HIV/AIDS cho thanh niên viết cẩm nang đào tạo “Kỹ năng
sống trong phòng, chống HIV/AIDS cho thanh niên” (2008).
- Bên cạnh đó, có một số bài báo được đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng
như Báo Pháp luật Việt Nam, Báo Quảng Ninh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên chỉ đề cập đến một số
khía cạnh và ở mức độ nhất định về những khó khăn thách thức của người nhiễm
HIV/AIDS, quyền lợi của những người nhiễm HIV/AIDS, thực trạng, giải pháp nhằm ngăn
chặn HIV/AIDS… mỗi đề tài, mỗi bài viết, mỗi chuyên đề lại đưa ra hướng nghiên cứu
theo một hướng khác nhau, mà chưa có một đề tài nào nghiên cứu toàn diện về vấn đề thực
hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Dưới phương diện lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đề tài tập trung:
- Làm rõ thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
- Xác định rõ thực trạng thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng
Ninh.
- Đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp
luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật, làm cơ sở xây dựng khái niệm thực hiện
pháp luật phòng, chống HIV/AIDS để rút ra có đặc thù gì khác.
- Phân tích và làm rõ những yếu tố đặc thù về kinh tế - xã hội khiến dịch HIV/AIDS
lây nhiễm cao và nhanh ở Quảng Ninh.
- Thu thập các nguồn thông tin (có thể từ điều tra, giám sát dịch tễ) để làm rõ thực
trạng về việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
- Từ thực tế của tỉnh liên hệ với tình hình nhiễm HIV/AIDS trên cả nước để làm rõ
tính đặc thù của của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, các hình thức thực hiện
pháp luật phòng, chống HIV/AIDS và tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
- Rút ra được những đặc điểm của dịch HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh để có dự báo xu
hướng biến động của dịch trong những năm tới, từ đó đưa ra các giải pháp và khuyến nghị
thích hợp nhằm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật như: Khái niệm thực hiện pháp luật,
khái niệm thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, làm rõ các hình thức, nội dung và
vai trò của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, thực trạng thực hiện pháp luật
phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề ra các giải pháp nhằm bảo
đảm cho việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về thực hiện pháp luật phòng, chống
HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 1998 - 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng về nhà nước và pháp luật nói
chung và thực hiện pháp luật đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn
hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, khảo sát
thực tiễn, phỏng vấn một số đối tượng đặc biệt.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Có thể nói luận văn “Thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng
Ninh” là công trình đầu tiên được nghiên cứu dưới góc độ lý luận chung về lịch sử nhà
nước và pháp luật, nhằm luận giải một cách tương đối có hệ thống về cơ sở lý luận thực
tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS. Vì vậy,
luận văn bước đầu đã có những đóng góp về mặt khoa học sau đây:
- Luận văn đã xây dựng được một hệ thống quan điểm lý luận về thực hiện pháp luật
phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh. Trong đó xây dựng được khái niệm, phân
tích được đặc điểm của thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, các hình thức thực
hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS, làm rõ các phương hướng giải pháp bảo đảm hiệu
quả, hiệu lực việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
Luận văn đã phân tích, đánh giá khách quan, khoa học một cách có hệ thống về thực
hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Ninh.
Luận văn đã xây dựng được một số quan điểm và đề xuất được các giải pháp pháp lý
có tính khả thi cao nhằm hoàn thiện việc thực hiện pháp luật phòng, chống HIV/AIDS ở
tỉnh Quảng Ninh. Qua đó định hướng hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống
HIV/AIDS cho các giai đoạn sau.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
có 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG
HIV/AIDS
1.1.1. Phòng, chống HIV/AIDS
1.1.1.1. Quan niệm pháp luật về HIV và AIDS
* HIV:
Là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh (Human Immunodeficiency Virus) Là vi rút gây
suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây
bệnh.
Khi vào cơ thể con người vi rút tấn công các tế bào miễn dịch (là các tế bào bạch cầu)
là đội quân chủ lực bảo vệ cơ thể chống lại các vi trùng gây bệnh. Các tế bào miễn dịch bị
tấn công trong một thời gian (có thể là 10 đến 20 năm) sẽ bị giảm về số lượng và cơ thể
không có khả năng chống đỡ được các vi trùng gây bệnh như lao, tiêu chảy, vi rút, nấm…
dẫn đến suy kiệt và tử vong.
Có 2 loại HIV:
Cấu trúc vi rút HIV
- HIV1: Giống một loại vi rút ở loài khỉ Chiqanzel tại Gabong, HIV1 gây nhiễm bệnh
trên toàn cầu được tìm thấy vào năm 1983.
- HIV2: Giống một loại vi rút ở loài khỉ Sooty Mangabey tại Tây phi, HIV 2 gây
nhiễm bệnh chủ yếu ở khu vực châu Phi, tìm thấy vào năm 1986.
Hai loại virus này cùng một loại virus mà sau đó được hội nghị về danh pháp quốc tế
về AIDS do một loại virus gây suy giảm miễn dịch ở người gây nên, virus có tên gọi là
HIV (Human Immuno deficiency Virus).
Đặc điểm sinh học của HIV:
HIV xuất hiện tự nhiên có thể từ trước thập niên 60 của thế kỷ XX nhưng nguồn gốc
thực sự của HIV là gì thì người ta vẫn chưa biết chắc chắn. Rất nhiều giả thuyết đã được
đưa ra nhằm giải thích cho nguyên nhân gây ra đại dịch HIV/AIDS. Giả thuyết được nhiều
người ủng hộ hiện nay là HIV đã hiện diện ở một phần nhóm người tách biệt nào đó trên
thế giới và đối với họ vi rút này hoàn toàn vô hại. Vì điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi
trên cục diện toàn thế giới: Du lịch phát triển, giải phóng tình dục, trình trạng nghiện ngập
ma tuý ngày càng nhiều cùng với sự lạm dụng tiêm chích mà không đảm bảo vô trùng,
truyền máu cũng gia tăng… Nên HIV đã lan truyền rộng khắp là kết quả loài người phải
đối mặt với đại dịch HIV/AIDS như hiện nay.
HIV xâm nhập và phát triển trong cơ thể, nó tấn công vào tế bào bạch cầu đặc biệt là
Lympho bào T4 (Lym pho bào T4 là thành phần quan trọng của hệ thống miễn dịch của cơ thể,
đóng vai trò như một tổng chỉ huy có nhiệm vụ điều phối huy động, kìm hãm toàn bộ hệ miễn
dịch của cơ thể). Như vậy, HIV làm suy giảm hệ thống miễn dịch, cơ thể không còn khả năng tự
bảo vệ. Mọi mầm bệnh mặc sức hoành hành gây nên nhiều chứng bệnh nguy hiểm dẫn đến tử
vong.
* AIDS:
AIDS (viết tắt từ tiếng anh: Acquired Immune Deficiency Syndrom) là hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm
trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong.
AIDS là giai đoạn cuối của sự nhiễm vi rút HIV. Người ta không thể bị AIDS nếu không
bị lây nhiễm HIV. Phòng ngừa nhiễm HIV là phòng ngừa AIDS.
* Tại sao HIV/AIDS lại nguy hiểm?
Sự lây lan của vi rút HIV
- Các nhà nghiên cứu khoa học hiện nay cho rằng HIV/AIDS vẫn là một loại “bệnh” phức tạp
chưa có thuốc chữa trị đặc hiệu, chưa có vác xin phòng HIV/AIDS.
- HIV/AIDS là một bệnh nhiễm trùng suốt đời, khi đã thích hợp vào bộ gen của tế
bào chủ. HIV tồn tại cùng với vật chủ cả đời, thậm chí nó tiếp tục sống trong cơ thể nhiều
giờ sau khi đã tử vong. Vì vậy, người nhiễm HIV có thể truyền bệnh cho người khác bất kể
lúc nào suốt cả cuộc đời họ.
- HIV/AIDS là một “dịch” ẩm từ khi nhiễm HIV trở thành AIDS, trải qua nhiều giai
đoạn (giai đoạn sơ nhiễm (cửa sổ), giai đoạn nhiễm HIV không triệu chứng, giai đoạn cận
AIDS, giai đoạn AIDS). Người bệnh không hề có triệu chứng đặc trưng ở các giai đoạn
đầu, nhưng có khả năng lan truyền âm ỉ mà ta không hề biết. Điều này như hiện tượng
“Tảng băng trôi”, do đó rất phức tạp và khó khăn cho phòng và chống.
Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn sóng kế
tiếp nhau: Giai đoạn đầu: người khoẻ mạnh trở thành người mang vi rút HIV. Đặc điểm
của giai đoạn này là thời gian ủ bệnh khó nhận biết, kéo dài có thể lây truyền sang người
khác… Giai đoạn hai, người mang vi rút HIV chuyển thành người bệnh, đồng thời xuất
hiện nhiều bệnh lây nhiễm khác như bệnh lao và nhiều bệnh khác do hệ miễn dịch bị phá
hoại. Giai đoạn này làm đảo lộn mọi đời sống của người bệnh đồng thời kéo theo những
khó khăn, tổn thất cho người thân, gia đình và xã hội… Giai đoạn thứ ba, người bệnh tử
vong, đây là một cái chết khủng khiếp… Giai đoạn thứ tư, là những hậu quả sau cái chết,
trên các cấp độ: người thân (vợ, chồng, con cái) gia đình nhiều thế hệ, cộng đồng và xã
hội. Đó là tình trạng nghèo đói, mồ côi, thất học, goá bụa, nỗi lo sợ sự kỳ thị, xa lánh của
người thân và cộng đồng đối với người có HIV/AIDS và những người chung sống với
HIV/AIDS.
- Một khi đại dịch bùng nổ, HIV/AIDS không chỉ làm tổn thương đến những người
có HIV/AIDS mà còn phá hoại nhiều mặt của đời sống cộng đồng, từ kinh tế đến xã hội,
văn hoá như một thảm hoạ. HIV/AIDS có khả năng huỷ diệt không chỉ đến một gia đình,
một dòng họ mà có thể huỷ diệt cả một quốc gia, dân tộc. HIV/AIDS được cộng đồng quốc
tế xem như một vấn đề của sự phát triển của mỗi quốc gia.
* Đường lây truyền của HIV và cách phòng tránh
- Đường lây truyền của HIV
HIV, loại vi rút gây ra AIDS, thường lây nhiễm qua đường tình dục. Tuy nhiên, vi rút
HIV có thể lây nhiễm qua nhiều đường khác.
Thứ nhất, đường lây truyền qua quan hệ tình dục:
Những vết xước ở niêm mạc âm đạo, hậu môn, miệng hay dương vật có thể xảy ra trong
quan hệ tình dục là đường vào của vi rút và từ đó vào máu. HIV có thể gắn và xâm nhập vào
tinh trùng, bạch cầu của tinh dịch, tế bào langerhan ở dịch nhầy âm đạo hoặc hậu môn. Lây
nhiễm thông qua quan hệ tình dục không được bảo vệ với một người nhiễm HIV, không được
bảo vệ có nghĩa là không sử dụng bao cao su nam (hoặc bao cao su cho nữ). Các nghiên cứu
cho thấy, nguy cơ lây nhiễm cao nhất là qua giao cấu bằng đường hậu môn và âm đạo mà
không có sự bảo vệ. Quan hệ tình dục bằng đường khác có nguy cơ thấp hơn.
Đường lây truyền
của virut HIV
Nguy cơ lây nhiễm HIV qua một lần quan hệ tình dục với người nhiễm HIV từ 1-
10%. Nguy cơ này tăng lên khi quan hệ tình dục với nhiều người, đặc biệt với người có
bệnh lây truyền qua đường tình dục thì nguy cơ có thể tăng lên tới 20 lần, làm tăng nhanh
tiến triển của người nhiễm HIV thành AIDS, nam truyền HIV cho nữ nhiều hơn gấp 2 lần
so với nữ truyền cho nam vì thiết diện bề mặt tiếp xúc HIV của nữ rộng hơn nam.
Thứ hai, đường lây truyền qua máu:
Máu toàn phần bao gồm các thành phần hữu hình và các yếu tố đông máu có thể có chứa
HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỉ lệ rất cao. Từ năm 1985, việc tìm ra các
phương pháp xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV đã làm giảm rõ rệt nguy cơ lây
truyền qua đường máu, tuy nhiên, đối với những người cho máu mới nhiễm HIV thì bằng các
xét nghiệm huyết thanh không thể phát hiện được mà phải có các xét nghiệm phát hiện kháng
nguyên virut (P24) hoặc phát hiện DNA của virut (bằng PCR) hoặc phân lập virut. Điều này
thực sự hạn chế ở các nước đang phát triển và các nước kém phát triển.
HIV có thể lây truyền qua các vật xuyên chọc qua da và niêm mạc như: Lây nhiễm qua
dùng chung bơm kim tiêm hoặc các dụng cụ xuyên qua da đã nhiễm HIV. Những dụng cụ này
được sử dụng bởi thầy thuốc, bơm kim tiêm thuốc chữa bệnh, bơm kim tiêm ma tuý, kim dùng
xăm mình, kim châm cứu hoặc kim chọc lỗ tai, lưỡi dao lam không được tiệt khuẩn đúng cách.
HIV cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc với máu và các dịch sinh học có HIV mà không sử
dụng cụ phòng hộ; cấy truyền hoặc ghép cơ quan, tổ chức và tinh dịch, dịch vụ thẩm mỹ…
Tiếp nhận máu hoặc các sản phẩm máu, các bộ phận cơ thể, hoặc các mô từ người
nhiễm HIV. Trừ khi đã sàng lọc cẩn thận người cho máu và nguồn máu cung cấp đã được
xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, sự truyền máu có thể làm lây nhiễm HIV. Người cho
máu không có nguy cơ nhiễm HIV, trừ khi sử dụng kim tiêm không được khử khuẩn đúng
cách.
Tiếp xúc trực tiếp với máu của người nhiễm HIV. Ta có thể nhiễm nếu tiếp xúc trực
tiếp với máu (ví dụ qua các sây sát trên da của chúng ta) của người nhiễm HIV khi không
sử dụng các biện pháp phòng vệ như găng tay cao su, nhựa vinilong hoặc tấm nhựa. Tiếp
xúc này có thể xảy ra khi bị tai nạn, khi chữa răng hoặc chăm sóc y tế.
Thứ ba, đường lây truyền từ mẹ sang con:
Người ta có thể phân lập HIV hoặc DNA của vi rút trong tế bào bánh rau, máu của
thai nhi từ 8 tuần tuổi và ở nhiều tuần sau đó. Cơ thể lây truyền HIV từ mẹ sang con vẫn
chưa hoàn toàn sáng tỏ. Trẻ sơ sinh có thể nhiễm HIV từ mẹ xảy ra ở 3 giai đoạn:
Thứ nhất: Giai đoạn khi thai nằm trong tử cung:
Người mẹ có HIV (+) có thể truyền HIV cho con qua bánh rau. Người ta đã phát hiện
vi rút hoặc DNA của vi rut trong tổ chức này từ 10-15 lần. Lây truyền trong thời kỳ mang
thai chiếm khoảng 5% số trường hợp trẻ sơ sinh từ bà mẹ có HIV (+). Tỷ lệ lây truyền
trong thời kỳ mang thai chủ yếu xảy ra vào những tháng cuối của thai kỳ, đặc biệt khi thai
được khoảng 34 tuần.
Cơ chế lây truyền theo đường này rất phức tạp và chưa hoàn toàn biết rõ do cấu trúc