Luận văn Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông tỉnh Cà Mau

Trong quá trình thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH là một đòi hỏi khách quan, vừa mang tính cấp bách vừa có ý nghĩa lâu dài. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.[15] Trong công tác phát triển GD&ĐT “đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng, góp phần to lớn tạo nên diện mạo và chất lượng giáo dục của mỗi quốc gia”.[19] Phát triển đội ngũ GV nói chung, GVTHPT nói riêng là một trong các giải pháp nhằm tạo ra bước đột phá của giáo dục nước ta hiện nay. Trong hệ thống giáo dục phổ thông, bậc THPT là nền tảng quyết định chất lượng nguồn nhân lực, vì học sinh hoặc sẽ kết thúc giai đoạn học đường để tham gia trực tiếp vào hoạt động KT-XH, sẽ chọn lựa ngành nghề hoặc sẽ tiếp tục được đào tạo lên trình độ cao hơn. Do đó, để đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực tương lai này, vấn đề phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ GVTHPT là một đòi hỏi thường xuyên và cấp thiết, nhất là trong giai đoạn thực hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học ở trường phổ thông hiện nay. Những năm qua, ngành GD&ĐT tỉnh Cà Mau đã tập trung chỉ đạo công tác phát triển đội ngũ, góp phần bổ sung số lượng, nâng dần chất lượng giảng dạy cho GV các cấp, trong đó có GVTHPT. Tuy nhiên, quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm trang bị cho GVTHPT tỉnh Cà Mau về kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm và bản lĩnh nghề nghiệp cũng còn những hạn chế, bất cập. Mặt khác, tỉnh Cà Mau có những đặc thù về điều kiện địa lý, là vùng đất nhiều sông rạch, phương tiện giao thông đi lại khó khăn, dân cư sống rải rác trên địa bàn rộng việc mở rộng mạng lưới trường lớp cũng như thu hút, bố trí đội ngũ GV ở các huyện vùng sâu, vùng xa chưa theo kịp yêu cầu. Bên cạnh đó, tỉnh Cà Mau đang trong quá trình xây dựng và phát triển, nhu cầu về đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực để phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH địa phương là vấn đề bức xúc. Vì thế, việc tìm hiểu thực trạng và đề xuất các biện pháp nhằm phát triển đội ngũ GVTHPT trong tỉnh, đảm bảo đồng bộ về số lượng, cơ cấu và chất lượng là điều cần thiết. Đây là lý do để tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông tỉnh Cà Mau”.

pdf112 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2102 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông tỉnh Cà Mau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Văn Ngoạn Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. HUỲNH VĂN SƠN Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo nhà trường, các cán bộ Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học và Khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh; cảm ơn quý Thầy Cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Tôi trân trọng cảm ơn lãnh đạo và đồng nghiệp Sở Giáo dục và Đào tạo Cà Mau; cán bộ quản lý và giáo viên các trường trung học phổ thông tỉnh Cà Mau đã hết sức quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Huỳnh Văn Sơn – Người đã luôn động viên và tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những sơ sót, kính mong nhận được những góp ý quý báu của quý Thầy Cô và đồng nghiệp. Tác giả DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL : Cán bộ quản lý CSVC : Cơ sở vật chất CNH-HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo GV : Giáo viên GVTHPT : Giáo viên trung học phổ thông HS : Học sinh HSTHCS : Học sinh trung học cơ sở HSTHPT : Học sinh trung học phổ thông KT-XH : Kinh tế- xã hội THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH là một đòi hỏi khách quan, vừa mang tính cấp bách vừa có ý nghĩa lâu dài. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.[15] Trong công tác phát triển GD&ĐT “đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng, góp phần to lớn tạo nên diện mạo và chất lượng giáo dục của mỗi quốc gia”.[19] Phát triển đội ngũ GV nói chung, GVTHPT nói riêng là một trong các giải pháp nhằm tạo ra bước đột phá của giáo dục nước ta hiện nay. Trong hệ thống giáo dục phổ thông, bậc THPT là nền tảng quyết định chất lượng nguồn nhân lực, vì học sinh hoặc sẽ kết thúc giai đoạn học đường để tham gia trực tiếp vào hoạt động KT-XH, sẽ chọn lựa ngành nghề hoặc sẽ tiếp tục được đào tạo lên trình độ cao hơn. Do đó, để đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực tương lai này, vấn đề phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ GVTHPT là một đòi hỏi thường xuyên và cấp thiết, nhất là trong giai đoạn thực hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học ở trường phổ thông hiện nay. Những năm qua, ngành GD&ĐT tỉnh Cà Mau đã tập trung chỉ đạo công tác phát triển đội ngũ, góp phần bổ sung số lượng, nâng dần chất lượng giảng dạy cho GV các cấp, trong đó có GVTHPT. Tuy nhiên, quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm trang bị cho GVTHPT tỉnh Cà Mau về kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm và bản lĩnh nghề nghiệp cũng còn những hạn chế, bất cập. Mặt khác, tỉnh Cà Mau có những đặc thù về điều kiện địa lý, là vùng đất nhiều sông rạch, phương tiện giao thông đi lại khó khăn, dân cư sống rải rác trên địa bàn rộng việc mở rộng mạng lưới trường lớp cũng như thu hút, bố trí đội ngũ GV ở các huyện vùng sâu, vùng xa chưa theo kịp yêu cầu. Bên cạnh đó, tỉnh Cà Mau đang trong quá trình xây dựng và phát triển, nhu cầu về đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực để phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH địa phương là vấn đề bức xúc. Vì thế, việc tìm hiểu thực trạng và đề xuất các biện pháp nhằm phát triển đội ngũ GVTHPT trong tỉnh, đảm bảo đồng bộ về số lượng, cơ cấu và chất lượng là điều cần thiết. Đây là lý do để tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng công tác phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông tỉnh Cà Mau”. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng công tác phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ GV và công tác phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác phát triển đội ngũ GVTHPT Tỉnh Cà Mau. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác phát triển đội ngũ GV. 4.2. Nghiên cứu thực trạng đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau hiện nay. 4.3. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau. 5. Giả thuyết nghiên cứu Thực trạng công tác phát triển đội ngũ được quan tâm nhưng chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả, đặc biệt là về mặt cơ cấu đồng bộ chất lượng cao? Nếu có các biện pháp phát triển đội ngũ GVTHPT phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của tỉnh như dự báo nhu cầu đội ngũ GV, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp, thực hiện cơ chế chính sách, thu hút GV từ nhiều nguồnthì có thể phát triển đồng bộ đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau trong những năm sắp tới. 6. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu việc phát triển đội ngũ GV đáp ứng chuẩn GVTHPT và nêu dự báo tương đối về việc phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau so với những biến động chung của tỉnh. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận - Nghiên cứu các văn bản về đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục. - Nghiên cứu phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận, sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến phục vụ mục đích nghiên cứu: gồm phiếu dành cho CBQL giáo dục và phiếu dành cho GV các trường THPT. Phiếu dành cho CBQL giáo dục có 10 câu hỏi tập trung khảo sát ý kiến nhận xét, đánh giá, tự đánh giá của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng về các vấn đề liên quan đến công tác phát triển đội ngũ GV. Phần tự đánh giá nhận xét có 4 câu hỏi gồm các nội dung: về vai trò; về sự quan tâm; thời gian đầu tư cho công tác phát triển đội ngũ và về năng lực thực hiện nhiệm vụ CBQL nhà trường (mỗi nội dung có 3 hoặc 5 mức độ lựa chọn trả lời). Phần đánh giá về đội ngũ GV và các hoạt động nhằm phát triển đội ngũ có 6 câu hỏi gồm các nội dung: về năng lực GV; về thực hiện các biện pháp phát triển đội ngũ; về hiệu quả các hình thức bồi dưỡng đội ngũ (có 5 mức lưạ chọn); về vận dụng các biện pháp phát triển đội ngũ (3 mức độ); các câu hỏi gợi ý về những hoat động cần tiến hành để phát triển đội ngũ và những thao tác cụ thể để xây dựng kế hoạch phát triển (lựa chọn có hoặc không). Phiếu dành cho GVTHPT có 10 câu hỏi. Ngoài câu hỏi tìm hiểu về thông tin cá nhân (giới tính, trình độ đào tạo, độ tuổi, công tác kiêm nhiệm) có 4 câu hỏi tập trung khảo sát ý kiến tự đánh giá về khả năng giảng dạy; khả năng thực hiện các nhiệm vụ GV; tự đánh giá về những vấn đề cơ bản liên quan đến năng lực; phẩm chất bản thân (5 mức độ lưạ chọn). Phần còn lại là 5 câu hỏi khảo sát về hiệu quả các hình thức bồi dưỡng GV; mức độ cần thiết của các biện pháp phát triển đội ngũ; đánh giá chung về hiệu quả phát triển đội ngũ GV của trường (5 mức độ lựa chọn) và đánh giá mức độ áp dụng những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên ở nơi công tác (3 mức độ). 7.3. Phương pháp chuyên gia Tham khảo ý kiến các CBQL, các GV nhiều kinh nghiệm, cán bộ tổ chức, thanh tra giáo dục, cán bộ chỉ đạo chuyên môn, cán bộ phụ trách về công tác đào tạo bồi dưỡng GV của Sở GD&ĐT. 7.4. Phương pháp dự báo Sử dụng các phương pháp dự báo trong nghiên cứu nguồn nhân lực giáo dục, bao gồm: - Phương pháp sơ đồ luồng. - Phương pháp dự báo theo định mức. - Phương pháp dự báo theo định hướng phát triển giáo dục của tỉnh - Phương pháp ngoại suy theo hàm xu thế 7.5. Phương pháp thống kê toán học Xử lý số liệu điều tra, định lượng, so sánh, phân tích kết quả khảo sát từng nội dung nghiên cứu làm căn cứ đánh giá thực trạng và dự báo nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục. 8. Cấu trúc luận văn Cấu trúc luận văn gồm các phần: - Mở đầu: Trình bày một số vấn đề chung của việc nghiên cứu đề tài - Nội dung chính: gồm 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu công tác phát triển đội ngũ GVTHPT. Chương 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau. Chương 3: Các biện pháp phát triển đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau. - Kết luận và kiến nghị Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Báo cáo của Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO (1996) đã “ khẳng định vai trò quyết định của người thầy giáo trong việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ có trách nhiệm xây dựng tương lai của nhân loại theo hướng toàn cầu hóa”; khẳng định “ thầy giáo là yếu tố quyết định hàng đầu đối với chất lượng giáo dục. Do đó, muốn phát triển giáo dục thì trước hết và trên hết phải phát triển đội ngũ giáo viên cả về số lượng và chất lượng”. [47] Nhận định này cho thấy công tác phát triển đội ngũ GV là vấn đề phổ biến của mọi quốc gia. Ở Philippin, quốc gia cùng khu vực và có những chỉ tiêu cơ bản tương tự như nước ta, trong kế hoạch tổng thể đào tạo bồi dưỡng giáo viên 10 năm (1998-2008) đã đề ra những giải pháp đáng lưu ý. Chẳng hạn, trong đào tạo GV thì thu hút những học sinh trung học có chất lượng khá giỏi vào ngành sư phạm. Trong sử dụng và bồi dưỡng thì xem lại thang lương GV với những người cùng trình độ để cải thiện đời sống và tạo thuận lợi cho họ trong công tác đồng thời khai thác chỗ làm cho GV mới ra trường, giảm bớt tình trạng GV mới không có chỗ làm việc. Mặt khác, thể chế hóa và củng cố việc bồi dưỡng tại chức, nâng cao nhận thức của dân chúng về vai trò, tầm quan trọng của nghề dạy học và vị thế của GV trong xã hội (theo Trần Bá Hoành, Thông tin khoa học giáo dục số 83 - 2001). Còn ở Nhật Bản, quốc gia phát triển vào bậc nhất của Châu Á (xã hội Nhật Bản được coi là xã hội bằng cấp và danh vọng) cũng đặc biệt chú trọng tới công tác phát triển đội ngũ GV. Luật Giáo dục Nhật Bản quy định: “Địa vị xã hội của giáo viên phải được tôn trọng, sự đối xử đúng đắn và phù hợp với giáo viên phải được đảm bảo”. Để trở thành GV phổ thông phải có chứng chỉ sư phạm. Nhật Bản có quy chế bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với GV phổ thông mới vào nghề. GV đương nhiệm được bồi dưỡng bằng nhiều hình thức, ở nhiều cấp với phương thức đổi mới, đa dạng. Chính sách đãi ngộ GV chủ yếu thể hiện qua lương, phụ cấp, trợ cấp. Mức tăng lương dựa vào thành tích và thâm niên công tác, trung bình 1 năm hoặc 2 năm một lần. GV trường công ở Nhật Bản được hưởng nhiều loại trợ cấp, quan trọng nhất là tiền thưởng 3 lần trong năm và cao gấp 5,2 lần lương tháng (Theo Mạc Thị Việt Hà, Tạp chí giáo dục số 204 – 12/2008). Đối với Cộng hòa Pháp, một quốc gia có nền giáo dục phát triển cao thuộc cộng đồng Châu Âu, có quy định về tuyển dụng GV phải thông qua thi tuyển (vào ngạch công chức GV). Các cơ sở giáo dục công lập trực thuộc Bộ có thể tuyển dụng GV cộng tác (GV hợp đồng) để giảng dạy các môn về kỹ thuật và dạy nghề. GV của cơ sở giáo dục tư thục cũng được hưởng chính sách nâng ngạch bậc như GV các cơ sở giáo dục công lập. Nhà nước cấp kinh phí cho hoạt động đào tạo ban đầu và nâng cao trình độ của GV các cơ sở giáo dục tư thục cùng với mức và giới hạn áp dụng đối với GV các trường công lập. Về chế độ ưu đãi GV, Luật giáo dục Cộng hòa Pháp có quy định: GV chính thức hoặc thực tập sinh có quyền có nhà ở hoặc có phụ cấp nhà ở, lương chính của GV trung học và tương đương, ngoài lương theo văn bằng còn có lương theo cấp bậc và trợ cấp bù giá (theo Ths.Đặng Thị Thu Huyền, Tạp chí Giáo dục số 167- 7/2007). - Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đã chỉ ra một trong những yếu kém của giáo dục nước ta là “đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô vừa phải đảm bảo và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục”. Trong các giải pháp phát triển giáo dục ở văn bản chiến lược này đã đề cập giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo nhằm “đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng, đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục”.[11] - Tại hội nghị triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới (tháng 4/2002) nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã đánh giá: “Đội ngũ giáo viên của một số địa phương về số lượng còn thiếu, cơ cấu chưa đồng bộ, trình độ chuyên môn và phương pháp dạy học còn nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ giáo viên công tác ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa”, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết nhằm kiện toàn đội ngũ GV như đánh giá, xếp loại, bồi dưỡng, đào tạo lại và giải quyết chính sách nghỉ hưu trước tuổi. Đánh giá vai trò, tầm quan trọng của công tác phát triển đội ngũ GV, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh: “Có thể nói rằng, nhà giáo là người quyết định đến sự thành bại của giáo dục, vì vậy chúng ta phải chăm lo đào tạo thầy giáo, cô giáo”.[3] - Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (2002), Bộ GD&ĐT nhận định “Đội ngũ giáo viên không đồng bộ về cơ cấu, nhất là giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông (còn thiếu giáo viên các môn Sinh vật, Kỹ thuật, Giáo dục công dân, Giáo dục quốc phòng, Nhạc, Họa, Thể dục)”.[3] - Đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông của Bộ GD&ĐT nhận xét: “Cơ cấu đội ngũ giáo viên tuy bước đầu đã được điều chỉnh, song vẫn còn nhiều khó khăn trong việc giải quyết tình trạng dạy chéo môn và dạy không đủ số môn quy định, nhất là đối với các môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Công nghệ, Giáo dục công dân, Tin học. Hiệu quả công tác bồi dưỡng giáo viên còn hạn chế. Nội dung bồi dưỡng còn chưa đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của giáo viên”.[3] - Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã nêu nhiệm vụ: “Tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo đủ số lượng và cân đối về cơ cấu; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục”.[16] - Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010” đã chỉ ra mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.[12] - Báo cáo của Bộ GD&ĐT tại Hội nghị phát triển GD&ĐT vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (tháng 8/2005) nhận định: “Giáo viên phổ thông mặc dù có tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn cao nhưng chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về trình độ học vấn, kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm do được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, qua các thời kỳ và có hoàn cảnh khác nhau. Tình trạng thiếu giáo viên dạy các môn Kỹ thuật, Âm nhạc, Mỹ thuật, Giáo dục công dân, Thể dục thể thao... chậm được khắc phục”.[4] Báo cáo cũng đề cập đến công tác xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển đội ngũ GV và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, tăng quy mô tuyển sinh đào tạo GV cho các trường đại học, cao đẳng trong vùng để đến năm 2010 đồng bằng sông Cửu Long có đội ngũ GV và CBQL giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về chất lượng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. - Trong “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” (xuất bản năm 1999), Giáo sư- Viện sĩ Phạm Minh Hạc khẳng định đội ngũ GV là một yếu tố quyết định sự phát triển sự nghiệp GD&ĐT và đã đưa ra những chuẩn quy định đào tạo GV.[24] - Tiến sĩ Vũ Bá Thể đưa ra một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, trong đó có những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển giáo dục phổ thông như “xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu về số lượng, ổn định theo vùng, đồng bộ về cơ cấu” và “nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đổi mới công tác quản lý và đào tạo cán bộ quản lý giáo dục phổ thông”.[24] - Các luận văn thạc sĩ: “Quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng trường trung học phổ thông thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau- thực trạng và giải pháp” của tác giả Đoàn Thị Bẩy.[9]; “Các giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010” của tác giả Phạm Đình Ly.[24]; “Mục tiêu và giải pháp phát triển giáo dục trung học phổ thông tỉnh Cà Mau từ nay đến năm 2010” của tác giả Nguyễn Thiện Nghĩa.[28]; “Biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý các trường THPT tỉnh Đồng Nai” của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân.[27] đã nêu lên thực trạng cũng như các giải pháp về công tác xây dựng, phát triển đội ngũ GV, CBQL giáo dục; xác định mục tiêu phát triển giáo dục THPT trong từng giai đoạn; nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học trong trường THPT ở các tỉnh Quảng Nam, Đồng Nai và Cà Mau. Ngoài ra những công trình, nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Tạp chí Phát triển giáo dục), như bài viết “Nhận diện nguồn nhân lực- cơ sở xây dựng chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực” của Phan Văn Nhân (Tạp chí Phát triển giáo dục số 5-2002); “Định hướng nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên giai đoạn 2007-2010” của Giáo sư- Tiến sĩ Trần Bá Hoành (Tạp chí Giáo dục số 162-5/2007); “Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT ở thành phố Nam Định, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” của Nguyễn Tiến Dũng (Tạp chí Giáo dục số 184-2/2008); “Về định hướng nghiên cứu giáo viên trong những năm tới” của Phó Giáo sư- Tiến sĩ khoa học Cao Đức Tiến (Tạp chí Giáo dục số 192-6/2008); “Một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên THPT công lập ở Nghệ An” của Nguyễn Thị Tuất (Tạp chí Giáo dục số 203-12/2008) đã đề cập nhiều nội dung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất thiết thực đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ GVTHPT nói chung và riêng ở một số địa phương. Tuy nhiên, các văn bản, báo cáo, luận văn, các bài viết khoa học... kể trên chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về thực trạng đội ngũ GVTHPT tỉnh Cà Mau để làm căn cứ cho việc dự báo và đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ này trên địa bàn tỉnh Cà Mau từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Đây là một điểm trống để đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm đưa ra những cơ sở khoa học cho phát triển giáo dục tỉnh Cà Mau. 1.2. Một số khái niệm liên quan 1.2.1. Khái niệm quản lý Khái niệm quản lý là một khái niệm có ý nghĩa rất tổng quát. Từ khi xã hội loài người hình thành, hoạt động tổ chức, quản lý đã được quan tâm. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. Xét ở góc độ hoạt động thì quản lý là điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi con người để đạt đến mục đích, phù hợp với quy luật khách quan. Dưới góc độ khoa học, quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các nhóm, các tổ chức nhằm đạt được mục tiêu chung. Trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau, khái niệm quản lý đã được các nhà lý luận đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. C.Mác đã viết: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần đến một chừng mực nhất định của sự quản lý. Quản lý là sự xác lập, sự tương hợp giữa các công việc cá thể và hoàn thành những chức năng chung xuất hiện trong sự vận động đ
Luận văn liên quan