Giáo dục - Đào tạo (GD-ĐT) giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi dân tộc, cũng như toàn thể nhân loại. Tiến trình phát triển xã hội ngày
càng khẳng định vai trò của giáo dục đào tạo đối với kinh tế - xã hội - an ninh, quốc phòng
là động lực bậc nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng,
hiệu quả, bền vững. Các nước trên thế giới đã nhận thức sâu sắc vai trò của GD - ĐT đối với
kinh tế, an ninh quốc phòng. Ở nhiều nước, giáo dục và đào tạo là ưu tiên hàng đầu của
quốc gia vì trình độ và chất lượng giáo dục quyết định trình độ phát triển của mỗi nước. Do
vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư để tạo nguồn dự trữ chiến lược quan trọng nhất của mỗi
quốc gia.
Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cơ
bản của GD - ĐT, khoa học - công nghệ (KHCN) và nhiệm vụ tăng cường an ninh, quốc
phòng trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thời kỳ công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá
(HĐH) đất nước. “Xây dựng quân đội nhân dân và Công an nhân dân (CAND) cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để
lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Đổi
mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến đổi mới vũ khí,
trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự, khoa
học Công an (CA), nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực
lượng chuyên trách, bán chuyên trách, phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ
An ninh quốc gia (ANQG), bảo đảm trật tự an toàn xã hội (TTATXH)”.[24]
117 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường đại học an ninh nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN ĐÀN
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC AN NINH NHÂN DÂN
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 06 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ VĂN LIÊN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
Nguyễn Văn Đàn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến
Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng khoa học,
Phòng Khoa học công nghệ & Sau đại học và quý thầy cô đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu chương trình đào tạo Thạc sỹ
Quản lý giáo dục.
Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học An ninh nhân dân và Phòng QL Đào tạo thuộc trường
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
TS Hồ Văn Liên, Trưởng Khoa tâm lý Giáo dục trường Đại học sư phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn Thạc sỹ này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Lãnh đạo các Bộ môn, Khoa, Phòng,
Trung tâm và quý thầy cô giáo và học viên của Trường Đại học An ninh nhân dân.
Cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ động viên, tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng nhiều nhưng có thể luận văn vẫn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, Kính mong được sự góp ý chân thành, nhiều ý kiến chỉ dẫn để
luận văn được hoàn thiện tốt hơn.
TP. Hồ Chí Minh tháng 09 năm 2007
Nguyễn Văn Đàn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AN : An ninh
ANQG : An ninh quốc gia
ANNDANND : An ninh nhân dân
CA : Công an
CAND : Công an nhân dân
CBQL : Cán bộ quản lý
CĐ : Cao đẳng
CNH : Công nghiệp hóa
CNH -HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CSCN : Cộng sản chủ nghĩa
ĐT : Đào tạo
ĐH.ANND : Đại học An ninh nhân dân
HĐH : Hiện đại hóa
GD : Giáo dục
GD-ĐT : Giáo dục - Đào tạo
GV : Giảng viên
KH KH : Khoa học
KHCN : Khoa học công nghệ
KHKT : Khoa học kỹ thụât
KHTN : Khoa học tự nhiên
KHXH : Khoa học xã hội
KTXH : Kinh tế xã hội
HV : Học viên
NC : Nghiên cứu
NCKH : Nghiên cứu khoa học
THPT : Trung học phổ thông
SX : Sản xuất
QTDH : Quá trình dạy học
QTTĐ : Quá trình đào tạo
QL : Quản lý
QLĐT : Quản lý đào tạo
QLGD : Quản lý Giáo dục
QLNT : Quản lý nhà trường
VLVH : Vừa làm vừa học
XH : Xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XDLL : Xây dựng lực lượng
XDLL CAND : Xây dựng lực lượng Công an nhân dân
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục - Đào tạo (GD-ĐT) giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi dân tộc, cũng như toàn thể nhân loại. Tiến trình phát triển xã hội ngày
càng khẳng định vai trò của giáo dục đào tạo đối với kinh tế - xã hội - an ninh, quốc phòng
là động lực bậc nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng,
hiệu quả, bền vững. Các nước trên thế giới đã nhận thức sâu sắc vai trò của GD - ĐT đối với
kinh tế, an ninh quốc phòng. Ở nhiều nước, giáo dục và đào tạo là ưu tiên hàng đầu của
quốc gia vì trình độ và chất lượng giáo dục quyết định trình độ phát triển của mỗi nước. Do
vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư để tạo nguồn dự trữ chiến lược quan trọng nhất của mỗi
quốc gia.
Nghị quyết Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cơ
bản của GD - ĐT, khoa học - công nghệ (KHCN) và nhiệm vụ tăng cường an ninh, quốc
phòng trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thời kỳ công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá
(HĐH) đất nước. “Xây dựng quân đội nhân dân và Công an nhân dân (CAND) cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để
lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Đổi
mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến đổi mới vũ khí,
trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự, khoa
học Công an (CA), nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực
lượng chuyên trách, bán chuyên trách, phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ
An ninh quốc gia (ANQG), bảo đảm trật tự an toàn xã hội (TTATXH)”.[24]
Mặt khác, Đảng ta cũng ý thức sâu sắc và luôn khẳng định tầm quan trọng của nhiệm
vụ an ninh - quốc phòng, làm rõ mối quan hệ giữa xây dựng phát triển và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ sự sống còn của chế độ. V.I.Lênin đã dạy rằng: “giành chính quyền đã khó, giữ
chính quyền còn khó hơn và một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. [36]
Trong xu thế phát triển của thời đại, nền kinh tế tri thức đang đặt ra cho giáo dục - đào
tạo trọng trách lớn lao và trách nhiệm nặng nề: đào tạo con người có tri thức khoa học. Bên
cạnh đó Đảng và Nhà nước đã quan tâm, đầu tư cho giáo dục, coi “giáo dục là quốc sách
hàng đầu” để xây dựng và phát triển đất nước. Khoa học giáo dục hiện đại cũng đang rất
quan tâm vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo, nhằm đào tạo xây dựng con người có đầy đủ
phẩm chất và năng lực hội nhập một cách sáng tạo vào cuộc sống luôn đổi mới. Do đó nâng
cao chất lượng dạy và học là một yêu cầu quan trọng và bức xúc ở mọi cấp, mọi ngành học
hiện nay.
Trường Đại học An ninh nhân dân (ĐH.ANND) là một trong sáu trường đại học của
ngành Công an có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ An ninh cho lực lượng Công an các
tỉnh, thành phía Nam.
Thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo của Đảng, Nhà nước nhằm
nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong nhiều năm qua Trường
ĐH.ANND đã tổ chức đào tạo hàng chục ngàn lượt học viên trong đó có hệ vừa làm vừa
học (VLVH); đặc biệt là hệ vừa làm vừa học liên kết với Công an các địa phương.
Trên nguyên tắc chung, đào tạo hệ VLVH tại trường ĐH.ANND cũng tuân thủ các quy
định chung của nhà nước. Song do tính chất, đặc điểm công tác của ngành, việc đào tạo hệ
này của ngành CA nói chung và của trường ĐH.ANND nói riêng mang những nét riêng biệt
về nhiều vấn đề từ công tác tuyển sinh đến quá trình tổ chức đào tạo, quản lý đào tạo đối với
hệ VHVL.
Thực tế việc tổ chức đào tạo hệ VLVH đã được Trường ĐH.ANND triển khai tổ chức
đào tạo từ nhiều năm qua. Nhưng do những lý do khách quan và chủ quan việc nghiên cứu
tổng kết, đáng giá một cách khách quan, khoa học về công tác quản lý đào tạo đối với hệ
VLVH chưa được tiến hành, để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào
tạo. Là người làm công tác quản lý đào tạo tại trường đại học ANND, lại được trực tiếp làm
công tác quản lý (QL) hệ VLVH bản thân tác giả nhận thấy sự cần thiết của việc nghiên
cứu, đánh giá thực trạng công tác QL hệ VLVH và từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao
chất lượng công tác đào tạo đối với hệ này của trường ĐH.ANND.
Với cách tiếp cận trên, tôi chọn nghiên cứu vấn đề: “Thực trạng quản lý đào tạo hệ
vừa làm vừa học ở trường đại học ANND” làm đề tài của luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành
quản lý giáo dục.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực trạng chỉ ra được ưu điểm và những tồn tại của
quá trình tổ chức đào tạo và đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo hệ VLVH của trường ĐH.ANND.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường
ĐH.ANND.
- Khách thể: Công tác QL đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường ĐH.ANND.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung giải quyết nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài:
- Khảo sát thực trạng công tác quản lý đào tạo hệ VLVH ở trường ĐH.ANND
- Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo hệ VLVH
ở trường đại học ANND.
5. GIỚI HẠN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu:
- Địa bàn: Chỉ nghiên cứu thực trạng quản lý hệ đại học vừa làm vừa học theo hình
thức liên kết với một số địa phương từ Phú Yên đến Cần Thơ.
- Nội dung nghiên cứu: Thực trạng quản lý đào tạo đối với hệ vừa làm vừa học ở
trường ĐH.ANND:
+ Công tác tuyển sinh.
+ Công tác quản lý giảng dạy của GV.
+ Quản lý học tập của học viên.
+ Quản lý kiểm tra, đánh giá.
+ Quản lý cơ sở vật chất, tài chính.
+ Sự phối hợp giữa các đơn vị trong và ngoài trường.
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Công tác quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học liên kết với các địa phương của trường
ĐHANND còn có những bất cập như:
- Công tác tuyển sinh còn hạn chế, tổ chức và quản lý dạy học chưa phù hợp với địa
phương.
- Sự phối hợp quản lý thiếu đồng bộ, còn tùy thuộc vào sự quản lý của từng địa
phương và các GV trực tiếp giảng dạy.
Trên cơ sở đáng giá thực trạng thì có thể đề xuất các biện pháp quản lý nhằm khắc
phục được những hạn chế nói trên.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
+ Phương pháp phỏng vấn.
+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi.
+ Phương pháp nghiên cứu hồ sơ.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp toán thống kê.
8. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
- Tháng 4/2006: Xây dựng và bảo vệ đề cương.
- Từ tháng 4 đến tháng 7 thu thập thông tin lý luận và thực tiễn.
- Từ tháng 7 đến tháng 9 xử lý thông tin và viết luận văn.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý giáo dục (QLGD) nói chung, quản lý đào tạo (QLĐT) tại các trường nói riêng
đã được nhiều nhà khoa học, các tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới
những góc độ khác nhau.
Tại Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương vẫn tiếp tục khẳng định “Tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước
là công tác cấp bách, là điều kiện tất yếu đảm bảo huy động lực lượng to lớn của quần
chúng nhân dân, để hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân.”[24] Việc nghiên cứu về quản lý đào tạo từ trước đến nay đã được nhiều nhà
nghiên cứu, nhà giáo dục và nhà QL cùng nhiều tác giả quan tâm. Đáng chú ý là gần đây
một số tác giả trong nước nghiên cứu về lĩnh vực này, một số tác phẩm tiêu biểu như:
Giáo sư Trần Chí Đáo với bài viết: “Các hướng đổi mới Quản lý đại học Việt Nam
trước bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay”, đã đề cập tới vài dự báo về thế kỷ XXI.
GS. Trần Hồng Quân nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bài: “Những
hướng tiếp cận và giải pháp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hướng vào thế kỷ XXI”, Bài
“Nâng cao chất lượng đào tạo đại học để đáp ứng yêu cầu CNH, hiện đại hóa đất nước”đã
đề cập những xu hướng phát triển giáo dục thế giới thế kỷ XXI, thuận lợi và thách thức đối
với giáo dục Việt Nam, hướng tiếp cận và một số giải pháp đổi mới giáo dục nước nhà trước
thế kỷ mới.
Tác giả Nguyễn Văn Lê (1985) đã bàn về “Khoa học quản lý nhà trường”.
PGS-TS Hoàng Tâm Sơn và các giảng viên ở trường Cán bộ QLGD II – Bộ Giáo dục
& Đào tạo bàn về: “Tâm lý học với quản lý trường học”.
GS. Lâm Quang Thiệp nguyên Vụ trưởng Vụ Đại học có bài viết: “Việc quản lý chất
lượng đào tạo và cải tiến phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên”, xem việc
đánh giá kết quả học tập của học viên là một nhiệm vụ tất yếu, không thể thiếu trong quá
trình giảng dạy, đó là chức năng đánh giá và thẩm định chất lượng đào tạo.
Tác giả Lê Diệu Hiền với đề tài: “Một số biện pháp xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ CB giảng dạy ở trường Cao đẳng Hải quan” nghiên cứu việc nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên ở trường Cao đẳng Hải quan.
Hoàng Lê Tuân với đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đào tạo của trường
Cao Đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh”.
Hoàng Sỹ Chung với đề tài: “Thực trạng hoạt động quản lý quá trình đào tạo tại trường
Trung học Kỹ thuật Hải quân và một số giải pháp”.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu quá trình QLGD, QL nhà trường và thực tế này đã mở ra
sự hiểu biết rộng rãi và đa dạng về quá trình quản lý một trường đại học cụ thể, nhưng việc
nghiên cứu cụ thể về quản lý đào tạo ở các trường học của lực lượng vũ trang thì rất ít. Do
đó chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng tìm thấy cái mới trong công tác QL đào tạo
VLVH ở ĐH.ANND.
1.2. Các khái niệm
1.2.1. Khái niệm quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt “Quản lý” là “trông nom, xếp đặt công việc trong một cơ
quan, xí nghiệp.[49]
Thuật ngữ “Quản lý”(tiếng Việt gốc Hán) lột tả bản chất của hoạt động này trong thực
tiễn. Nó gồm 2 quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy
trì ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế
“phát triển”. Suy cho cùng thì bản chất của hoạt động QL là cách thức tác động (tổ chức,
điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể và đối tượng QL trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu
đã đề ra.
Theo các nhà QL học “Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công và hợp tác lao
động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao
hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý
Phải có người đứng đầu.”[51]
Hoạt động quản lý đã xuất hiện rất sớm cùng với sự hình thành các cộng đồng người.
Từ xa xưa các nhà quản lý và các nhà tư tưởng đã thấy rõ vai trò của nhân tố con người
trong hoạt động quản lý.
Nhà triết học Cổ đại Xôcrát (460 – 399 TCN) đã từng chỉ ra rằng, trong hoạt động
quản lý nếu biết sử dụng con người thì sẽ thành công, trái lại nếu không làm được điều đó sẽ
sớm sai lầm và thất bại.
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả lĩnh vực của đời sống con người, ở đâu
có con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý. Khái niệm về quản lý được
sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực.
Theo Mary Parker Follet: Quản lý là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông
qua người khác.
Theo F.Taylor (1856 - 1915) là người đầu tiên làm cho các vấn đề của quản lý thành
đối tượng của môn học khoa học độc lập và chính ông đã biến các tư tưởng quản lý thành
các nguyên tắc và kỹ thuật lao động cụ thể, tạo ra được năng suất, hiệu quả cao trong sản
xuất: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được
rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ nhất”.[14]
Theo nhà lý luận quản lý Henry Fayol: “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế
hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”. [14]
Quản lý theo sự phân tích của K.Mark là: “Chức năng chủ yếu quản lý là liên hợp,
tháp hợp tất cả các mặt hoạt động của tổ chức và của những người tham gia tổ chức đó
thành một chỉnh thể”.[26] Theo K. Mark chức năng quan trọng tất yếu của lao động xã hội,
nó gắn chặt với sự phân công, hợp tác dưới sự điều khiển, chỉ huy thống nhất, đồng bộ trong
các hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống. K. Mark cho rằng: “Mọi lao động xã hội
trực tiếp hay lao động chung, có quy mô tương đối lớn hoặc nhiều hoặc ít cần có sự chỉ huy,
nhằm điều hòa hoạt động của các cá nhân và thực hiện các chức năng nói chung sinh ra
trong vận động tổng thể của sản xuất khác với sự vận động của một công cụ độc lập Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng”.[42]
Theo Kzlova O.V. thì: “Quản lý là sự tác động có mục đích đến tập thể con người để
tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất”.[33]
Các nhà nghiên cứu về quản lý và QLGD nước ta, các Giáo sư, các nhà tư tưởng trong
quá trình nghiên cứu của mình cũng đưa ra các định nghĩa, các khái niệm về quản lý như
sau: Theo GS. Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu,
quản lý là một hệ thống, là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu
nhất định, những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái của một hệ thống mà người quản lý
mong muốn”.[35]
Theo GS. Hoàng Chúng và Phạm Thanh Liêm: “Quản lý là tác động có mục đích đến
tập thể những con người nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của họ, động viên kích thích
họ trong quá trình lao động”.[11]
Theo tác giả Hà Sỹ Hồ: “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ
định) có tổ chức, có lựa chọn trong các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình
trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho vận hành của đối tượng được ổn định và
làm cho nó phát triển tới mục đích đã chọn”.[26]
Theo TS. Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa học, là nghệ thuật
tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo
mục tiêu đề ra”.[37]
Theo TS. Nguyễn Tấn Phước: “Quản trị là quá trình hoạch định, tổ chức bố trí nhân
sự, lãnh đạo và kiểm soát công việc và những nỗ lực của con người, đồng thời vận dụng một
cách có hiệu quả mọi tài nguyên (gồm con người, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, tiền
bạc, bí quyết công nghệ v.v) để hoàn thành các mục tiêu đã định”. [5]
Theo TS.Nguyễn Thị Liên Diệp: “Quản trị là một phương thức làm cho những hoạt
động được hoàn thành với một hiệu suất cao, bằng và thông qua những người khác. Phương
thức này bao gồm những chức năng hay hoạt động cơ bản mà nhà quản trị có thể sử dụng.
Đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra”.[13] Quản trị là những hoạt động cần
thiết được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những
mục tiêu chung”.[13]
Theo tác giả Mai Hữu Khuê: “Quản lý là sự tác động có mục đích của các cán bộ quản
lý đối với tập thể con người nhằm làm cho hệ thống hoạt động bình thường, giải quyết được
nhiệm vụ đề ra”.[31]
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa, có rất nhiều các khái niệm khác nhau. Nhưng theo
chúng tôi định nghĩa về quản lý của GS.Vũ Dũng hiểu theo nghĩa tổng quát nhất: “Quản lý
là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể
đến khách thể của nó”.[15]
Tuy nhiên, cần phân biệt giữa quản lý với lãnh đạo. Đây là hai thuật ngữ không đồng
nhất về mặt ý nghĩa “Lãnh đạo là quá trình định hướng dài hạn cho các chuỗi các tác
động của chủ thể quản lý, còn quản lý là quá trình chủ thể tổ chức liên kết và tác động lên
đối tượng bị quản lý để thực hiện các định hướng tác động dài hạn”. [48] “Lãnh đạo thiên về
quyết sách của phương châm chính trị lớn về chấp hành chính sách, tổ chức lực lượng hoàn
thành mục tiêu tổ chức”.[42]
Tóm lại: Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội, tức là hoạt
động quản lý chỉ cần thiết và tồn tại đối với một nhóm người. Còn đối với một cá nhân
người ta tự điều khiển hoạt động của mình. Quản lý bao gồm công việc chỉ huy và tạo điều
kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt được mục đích của nhóm. Có thể nói
hệ thống quản lý là sự tác động tương hỗ biện chứng giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
- Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hoá và là đối tượng
nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến thức, giải thích các mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, dự báo kết quả.
- Quản lý là nghệ thuật bởi lẽ nó là hoạt động đặc biệt hoạt động này đòi hỏi vận dụng
hết sức khéo léo, linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức đã được đúc
kết. Người quản lý thông qua tri thức và kinh nghiệm áp dụng những kỹ năng cần thiết vào
tổ chức con người và công việc.
Quản lý có cấu trúc và vận động trong một môi trường xác định.
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của quản lý
Quản lý trước hết là hoạt động có mục đích, có tổ chức để điều chỉnh các mối quan hệ.
Quản lý được đảm bảo thông tin của các tuyến trong quan h