Từ những năm cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, cục diện thế giới có nhiều thay
đổi, cách mạng khoa học và công nghệ thế giới tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống
xã hội. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và khoa học công nghệ nói
chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội.
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học và công tác quản lý đang là một xu thế tất yếu của
nhiều quốc gia trong thế kỷ 21- kỷ nguyên của thông tin và tri thức.
Đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [17]
105 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4048 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy của hiệu trưởng trường thpt tại Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Lê Duy Khiêm
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀO GIẢNG DẠY CỦA HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG THPT TẠI CẦN THƠ
Chuyên ngành: Quản Lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGÔ ĐÌNH QUA
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được thực hiện và hoàn thành nhờ sự giúp đỡ của Quý Thầy Cô giáo đồng
nghiệp và bạn bè gần xa. Tác giả xin chân thành cám ơn Lãnh đạo và Quý Thầy Cô trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh; Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Cần Thơ;
Lãnh đạo và Quý Thầy Cô giáo trường THPT Phan Ngọc Hiển thành phố Cần Thơ, đã tạo
điều kiện và giúp đỡ cho tôi hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ NGÔ ĐÌNH
QUA - người Thầy tận tụy, đáng kính đã bỏ ra rất nhiều công sức, trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện để hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn tập thể lớp Thạc sĩ Quản lý Giáo dục khóa 17, đã giúp đỡ tác
giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tuy đã cố gắng nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong tiếp tục nhận được sự
giúp đỡ, góp ý của Quý Thầy Cô và bạn bè đồng nghiệp.
Trân trọng biết ơn!
Tp.Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2010
Tác giả
Trần Lê Duy Khiêm
DANH DỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 CBQL : Cán bộ quản lý
2 CNTT : Công nghệ thông tin
3 CSVC : Cơ sở vật chất
4 ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
5 GV : Giáo viên
6 HS : Học sinh
7 HT : Hiệu trưởng
8 NXB : Nhà xuất bản
9 PHT : Phó hiệu trưởng
10 PPDH : Phương pháp dạy học
11 TBDH : Thiết bị dạy học
12 THPT : Trung học phổ thông
13 TT : Tổ trưởng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, cục diện thế giới có nhiều thay
đổi, cách mạng khoa học và công nghệ thế giới tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống
xã hội. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và khoa học công nghệ nói
chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã hội.
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học và công tác quản lý đang là một xu thế tất yếu của
nhiều quốc gia trong thế kỷ 21- kỷ nguyên của thông tin và tri thức.
Đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [17].
Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục phổ thông đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc
sống, chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo nhiều xu hướng khác nhau,
trong đó có xu hướng ứng dụng CNTT và sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại, phát huy
mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao
chất lượng giáo dục.
Theo tài liệu “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường phổ thông Việt
Nam” của Viện khoa học giáo dục Việt Nam (NIESAC) năm 2007 thì “ứng CNTT là việc
làm hết sức cần thiết ở Việt Nam nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu tổng thể về ứng
dụng CNTT và truyền thông trong dạy học. Hiện nay có nhiều trường phổ thông ở Việt Nam
đã được trang bị phòng máy nhưng mới sử dụng để dạy tin học như một môn học, còn việc
sử dụng phòng máy cùng các phần mềm dạy học như một công cụ dạy học còn là vấn đề cần
giải quyết. Các trường chưa có cơ sở khoa học lựa chọn phần mềm dạy học để dùng cho
mình, ngay cả số lượng phần mềm dạy học cũng rất ít, không đáp ứng nhu cầu sử dụng.
Thực tiễn này đòi hỏi cần nghiên cứu một cách hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý
việc ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy học” [53].
Như vậy, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở trường trung học phổ thông (THPT)
có tác dụng nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần cải tiến phương pháp giảng dạy theo
kịp xu thế của thời đại. Hiểu được vấn đề này, một số trường THPT tại thành phố Cần Thơ
đã mạnh dạn ứng dụng CNTT vào giảng dạy trong những năm qua. Tuy nhiên, đến nay công
tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy vẫn chưa đạt được hiệu quả cao ở hầu hết
các trường THPT tại thành phố Cần Thơ. Chính vì thế, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Thực
trạng quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy của Hiệu trưởng trường
THPT tại Cần Thơ” với mong muốn góp một phần nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả công
tác quản lý.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được thực trạng quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở một số trường
THPT tại thành phố Cần Thơ, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể
Công tác quản lý trường THPT của hiệu trưởng tại thành phố Cần Thơ.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của hiệu trưởng trường
THPT tại Cần Thơ.
- Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào
giảng dạy của Hiệu trưởng trường THPT tại thành phố Cần Thơ.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở một số trường THPT tại thành
phố Cần Thơ của các chủ thể quản lý có thể có nhiều ưu điểm như: các chủ thể quản lý đã
nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT, đã xây dựng kế hoạch ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy, đã tổ chức chỉ đạo việc soạn bài giảng có ứng dụng
CNTT, đã tổ chức kiểm tra việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy... Nhờ vậy, việc tiếp thu kiến
thức và hình thành kỹ năng của học sinh được thuận lợi hơn, hiệu quả hơn việc giảng dạy
không có ứng dụng CNTT. Tuy nhiên, công tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy
ở một số trường vẫn còn một số hạn chế ở những công việc như: việc tổ chức thực hiện bồi
dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên; việc tổ chức các hoạt động
chuyên đề, thảo luận trao đổi kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin; công tác quản
lý phương tiện, thiết bị.
Có được những thành tựu trên là nhờ đội ngũ cán bộ quản lý (CBQL) quan tâm đến
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy, có biện pháp quản lý phù hợp, có đội ngũ GV tích cực.
Những tồn tại hạn chế trên có thể do:
- Nhận thức về những nội dung quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và sự tác
động qua lại của những nội dung đó ở CBQL của một số trường còn hạn chế.
- Biện pháp quản lý việc ứng dụng CNTT ở một số trường còn thiếu tính khoa học.
- Những khó khăn về đội ngũ GV (số lượng, chất lượng) và phương tiện hỗ trợ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận hoạt động quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường học, quản
lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy.
- Khảo sát thực trạng hoạt động quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở một số
trường THPT tại thành phố Cần Thơ và lý giải nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy, nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý trường học ở các trường THPT tại thành phố Cần Thơ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
Các quan điểm phương pháp luận được vận dụng ở đề tài này gồm:
6.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Quan điểm này được vận dụng trong nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nhóm
phương pháp nghiên cứu thực tiễn của đề tài. Tiếp cận quan điểm hệ thống - cấu trúc, giúp
người nghiên cứu tìm hiểu được mối liên hệ chặt chẽ giữa quản lý việc ứng dụng CNTT với
quản lý các hoạt động khác ở một số trường THPT tại thành phố Cần Thơ, cũng như xem xét
công tác quản lý nhà trường là một hệ thống, trong đó công tác quản lý việc ứng dụng CNTT
vào giảng dạy là một hệ thống con với các yếu tố hợp thành. Từ đó giúp tìm hiểu chính xác
thực trạng quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở trường THPT.
6.1.2. Quan điểm lịch sử - logic
Quan điểm này giúp người nghiên cứu xác định phạm vi không gian, thời gian và điều
kiện hoàn cảnh cụ thể, để điều tra thu thập số liệu chính xác, đúng với mục đích nghiên cứu
đề tài, trình bày công trình nghiên cứu theo trình tự hợp logic.
6.1.3. Quan điểm thực tiễn
Quan điểm này đòi hỏi người nghiên cứu xác định rõ thực trạng công tác quản lý việc
ứng dụng CNTT vào vào giảng dạy ở một số trường THPT tại thành phố Cần Thơ, nhằm tìm
kiếm những biện pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà trường THPT.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phân tích và tổng hợp các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài như quản lý, quản lý
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Phân loại và hệ thống hóa các lý thuyết có liên quan.
6.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.2.1. Phương pháp điều tra viết
+ Mục đích điều tra: Thu thập số liệu, tư liệu về thực trạng quản lý việc ứng dụng
CNTT vào giảng dạy và các biện pháp quản lý ở trường THPT nhằm chứng minh cho giả
thuyết khoa học của đề tài.
+ Nội dung điều tra
- Thực trạng quản lý việc ứng dụng CNTT ở một số trường THPT tại thành phố Cần
Thơ, những ưu điểm và hạn chế.
- Nguyên nhân của thực trạng.
+ Mẫu nghiên cứu
Trong tổng số 24 trường THPT tại thành phố Cần Thơ, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 12
trường THPT (trong đó có 08 trường công lập; 03 trường bán công, 01 trường dân lập). Ở
mỗi trường, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 05 CBQL, 25 GV, 30 HS.
+ Sử dụng hệ thống các câu hỏi và phiếu điều tra phục vụ cho đề tài.
6.2.2.2. Phương pháp quan sát
Phương pháp này được sử dụng để quan sát những hoạt động quản lý việc ứng dụng
CNTT vào giảng dạy.
6.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn
+ Đối tượng phỏng vấn là hiệu trưởng (HT), phó hiệu trưởng (PHT), tổ trưởng (TT) và
các GV có kinh nghiệm.
+ Nội dung phỏng vấn là thực trạng và các biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy tại
trường THPT ở Cần Thơ.
6.2.3. Phương pháp toán thống kê
Phương pháp này được sử dụng để xử lý các số liệu điều tra. Các phép toán thống kê
được sử dụng trong đề tài là trung bình, tỉ lệ phần trăm và một số phép kiểm nghiệm thống
kê thông dụng của phần mềm SPSS.
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN VÀO GIẢNG DẠY CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong xã hội hiện nay, với sự bùng nổ thông tin, con người càng phải học tập nhiều
môn khoa học hơn. Vai trò của người thầy chỉ là làm nhiệm vụ hướng dẫn người học tự đi
tìm và lĩnh hội tri thức. Vấn đề này lại gây khó khăn cho người dạy và học. Bởi vì quỹ thời
gian của họ không nhiều. Điều đó tạo nên một mâu thuẫn mà chúng ta cần phải giải quyết để
đảm bảo quá trình dạy - học có hiệu quả. Như vậy đòi hỏi người dạy và người học phải sử
dụng một số phương tiện khác để hỗ trợ.
Từ thập niên 90 của thế kỷ trước, vấn đề ứng dụng CNTT vào dạy học là một chủ đề
lớn được UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa của
thế kỷ XXI. Ngoài ra, UNESCO còn dự báo: CNTT sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách
cơ bản vào đầu thế kỷ XXI.
Trước tình hình CNTT với giáo dục trên thế giới như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam
trong Nghị quyết Trung Ương 2, khóa VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình
dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh
viên đại học” [16].
Nghị quyết Trung Ương 2, khóa VIII nêu trên đã được cụ thể hóa bằng Chỉ thị 58-
CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị. Nội dung Chỉ thị có đoạn: “Đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các
hình thức đào tạo từ xa phục vụ nhu cầu học của toàn xã hội” [18].
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị 29/CT - bộ
gd&ĐT về Tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành GD - ĐT giai
đoạn 2001 - 2005. Nội dung Chỉ thị có đoạn: “Những thành tựu mới của khoa học và công
nghệ nửa cuối thế kỷ 20 đang làm thay đổi hình thức và nội dung các hoạt động kinh tế, văn
hoá và xã hội của loài người. Một số quốc gia phát triển đã bắt đầu chuyển từ văn minh công
nghiệp sang văn minh thông tin. Các Quốc gia đang phát triển tích cực áp dụng những tiến
bộ mới của khoa học và công nghệ, đặc biệt là CNTT, để phát triển và hội nhập” [7].
Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung,
phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới một "xã hội học
tập". Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển
của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Như vậy, ứng dụng CNTT vào giáo dục là một xu thế mới của nền giáo dục Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai lâu dài.
Đảng ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu trong chính sách phát triển đất nước trên
quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Chính vì thế
mà kể từ Hội nghị Trung ương 4 khoá VII, Đảng ta đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát
triển giáo dục.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Giáo dục và đào tạo hiện nay phải có một
bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và qui mô đào tạo,
nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường nhằm nhanh chóng đưa giáo dục và đào tạo
đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước” [16].
Trong văn kiện Đại hội Đảng IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra chủ trương “Tiếp
tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện
chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại”
[17].
Các nhà sư phạm nước ta như Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Thanh Phong, Đặng Vũ Hoạt,
Hà Thế Ngữ, Trần Kiều, Trần Kiểm, Nguyễn Phúc Châu, Phan Thế Sủng, Nguyễn Quốc Chí
đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục. Trong đó, các tác giả đã đề cập đến
các vấn đề như: vai trò của người HT trong công tác quản lý trường học; bản chất và mối
quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học; vai trò của người dạy và người học; biện pháp
nâng cao hiệu quả công tác quản lý của HT.
Trong giai đoạn đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay, yêu cầu đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học là việc làm cần thiết và cấp bách. Các nhà nghiên cứu về giáo dục
cũng cho ra đời nhiều công trình trong lĩnh vực này như: vấn đề “Dạy học lấy học sinh làm
trung tâm” của tác giả Trần Viết Vượng; vấn đề “Đổi mới phương pháp dạy học ở trường
trung học cơ sở” và “Đề xuất việc đổi mới công tác quản lý giáo dục” của tác giả Trần
Kiểm; “Một số vấn đề đổi mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo” của tác giả Trần Hồng
Quân.
Vấn đề quản lý hoạt động dạy học luôn được đông đảo các nhà nghiên cứu giáo dục,
các nhà quản lý giáo dục quan tâm. Ngoài ra, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường
CBQL Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều giáo trình giảng dạy liên quan tới quản lý hoạt
động dạy học như: Tập đề cương bài giảng “Quản lý nhà trường” của Nguyễn Phúc Châu;
“Quản lý quá trình giáo dục trong trường phổ thông” của tác giả Phan Thế Sủng. Bên cạnh
đó còn có các luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục đề cập tới vấn đề này, như đề
tài: “Một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học của trường THCS ở huyện Hóc Môn -
Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Tấn Khiêm; đề tài: “Thực trạng quản lý hoạt
động giảng dạy của HT các trường THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của
tác giả Võ Thanh Minh; đề tài: “Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy của HT các trường
THPT tỉnh Đắc Lắc” của tác giả Phạm Đăng Khoa; đề tài “Một số biện pháp tăng cường
quản lý hoạt động dạy học ở trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên” của tác giả Hoàng
Thị Bình; đề tài: “Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường
THPT thành phố Hạ Long - Tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Phạm Thị Hồng Hà. Nhìn chung,
các công trình nghiên cứu, các luận văn thạc sĩ này chủ yếu nghiên cứu công tác quản lý
trường THPT ở phạm vi rộng của hoạt động dạy học. Như vậy, có thể nói công tác quản lý
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy là một đề tài có thể chưa được nghiên cứu nhiều.
Từ năm 2003 đến 2005 dưới sự chủ trì của Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục,
PGS. TS. Đào Thái Lai đã làm chủ nhiệm đề tài: “Ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường
phổ thông Việt Nam”. Sau thời gian thực hiện đề tài tác giả đã thu được những kết quả nhất
định và kết quả đó là tài liệu tham khảo quý báu cho chúng tôi. Đề tài đã đưa ra được những
nguyên tắc chung và phương pháp ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy học một số
môn học. Những kết quả nghiên cứu của đề tài đã được triển khai thực nghiệm ở một số
trường phổ thông và đã thu được kết quả khả quan.
Kể từ khi CNTT được ứng dụng vào giảng dạy cho đến nay, theo các tài liệu mà chúng
tôi có được thì ở thành phố Cần Thơ chưa có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy,
trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi muốn dựa trên cơ sở lý luận công tác quản lý của
HT, để tìm hiểu thực trạng công tác quản lý việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở một số
trường THPT tại thành phố Cần Thơ, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động này
nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong trường THPT đáp ứng được yêu cầu đổi
mới của giáo dục hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý nhưng có thể khẳng định quản lý là hoạt
động gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là quá trình lựa chọn những
tác động lên khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho một hoạt động chung nào đó có kết quả
mong muốn. Chủ thể quản lý cần biết sắp xếp và thể hiện hợp lý các tác động lên đối tượng
bị quản lý, sao cho đảm bảo sự cân đối cả hai mặt ổn định và phát triển bộ máy.
Quản lý là một hoạt động lao động tất yếu trong quá trình phát triển của xã hội loài
người, nó được bắt nguồn và gắn chặt với sự phân công và hợp tác lao động, nó là một thuộc
tính bất biến, nội tại của mọi quá trình lao động xã hội. Sự cần thiết của hoạt động quản lý đã
được Mác khẳng định bằng ý tưởng độc đáo và đầy sức thuyết phục: “Một người độc tấu vĩ
cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [29,
tr.480].
Trong quá trình hình thành và phát triển của lý luận quản lý, tùy theo cách tiếp cận mà
khái niệm quản lý đã được các nhà nghiên cứu định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
- Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định” [40, tr.800].
- H.Knoontz định nghĩa: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó
con người cùng làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các mục tiêu” [22,
tr.29].
- Tác giả Trần Kiểm định nghĩa: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể người
để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong suốt quá trình lao động" [33].
- Theo hai tác giả Hà Sĩ Hồ và Lê Tuấn thì “Quản lý là quá trình tác động có định
hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình
trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và
làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [27, tr.34].
- Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng
quản lý) về các mặt chính trị,