Tình trạng dinh dưỡng, nhiễm giun và một số yếu tố liên quan của trẻem 12 - 36 tháng tuổi tại huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị

Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em vẫn phổ biến ở mức ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ởnhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bệnh không chỉ ảnh hưởng đến sựphát triển thểchất mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển tinh thần, trí tuệcủa trẻ. Vềmặt xã hội, suy dinh dưỡng gây nhiều thiệt hại vềkinh tế, kìm hãm phát triển kinh tếbởi nó trực tiếp ảnh hưởng tới nguồn nhân lực, ảnh hưởng tới giống nòi. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng từnăm 2000-2009, tỷlệ SDD trẻem đã giảm đi một cách rõ rệt, nếu nhưnăm 2000 tỷlệSDD trẻem dưới 5 tuổi là 33,8% (theo chỉtiêu cân nặng theo tuổi) thì tới năm 2009 đã giảm chỉcòn 18,9% [13]. Tuy nhiên, theo điều tra theo dõi tỷlệSDD trẻem các tỉnh năm 2009 của Viện Dinh Dưỡng cho thấy có sựkhác nhau nhiều về tỷlệSDD trẻem giữa các vùng sinh thái trên cảnước. Trong đó, tỷlệSDD khu vực miền núi luôn cao hơn đồng bằng, nông thôn cao hơn thành thị, những vùng bịhạn hán, lũlụt có tỷlệSDD cao hơn các vùng khác. Trong khi một sốtỉnh đồng bằng tỷlệSDD đã giảm xuống mức thấp nhưthành phố HCM (5,3%), Hà Nội (12,6%). thì nhiều khu vực miền núi tỷlệSDD vẫn ở mức rất cao nhưKon Tum (29,5%), Đắc Nông (29,4%), Lai Châu (27,8%), Quảng Bình (25,9%) [13]. Sựchênh lệch ởmức từ2-4 lần giữa miền xuôi và miền núi cho thấy mức độtrầm trọng của SDD trẻem khu vực miền núi.

pdf76 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2711 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình trạng dinh dưỡng, nhiễm giun và một số yếu tố liên quan của trẻem 12 - 36 tháng tuổi tại huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI -----K J----- NGUYỄN HOÀNG LINH CHI TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, NHIỄM GIUN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA TRẺ EM 12-36 THÁNG TUỔI TẠI HUYỆN ĐAKRÔNG TỈNH QUẢNG TRỊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ Y KHOA Khóa 2005-2011 Giáo viên hướng dẫn : TS LÊ THỊ HƯƠNG HÀ NỘI_2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em vẫn phổ biến ở mức ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bệnh không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển tinh thần, trí tuệ của trẻ. Về mặt xã hội, suy dinh dưỡng gây nhiều thiệt hại về kinh tế, kìm hãm phát triển kinh tế bởi nó trực tiếp ảnh hưởng tới nguồn nhân lực, ảnh hưởng tới giống nòi. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng từ năm 2000-2009, tỷ lệ SDD trẻ em đã giảm đi một cách rõ rệt, nếu như năm 2000 tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi là 33,8% (theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi) thì tới năm 2009 đã giảm chỉ còn 18,9% [13]. Tuy nhiên, theo điều tra theo dõi tỷ lệ SDD trẻ em các tỉnh năm 2009 của Viện Dinh Dưỡng cho thấy có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ SDD trẻ em giữa các vùng sinh thái trên cả nước. Trong đó, tỷ lệ SDD khu vực miền núi luôn cao hơn đồng bằng, nông thôn cao hơn thành thị, những vùng bị hạn hán, lũ lụt có tỷ lệ SDD cao hơn các vùng khác. Trong khi một số tỉnh đồng bằng tỷ lệ SDD đã giảm xuống mức thấp như thành phố HCM (5,3%), Hà Nội (12,6%)... thì nhiều khu vực miền núi tỷ lệ SDD vẫn ở mức rất cao như Kon Tum (29,5%), Đắc Nông (29,4%), Lai Châu (27,8%), Quảng Bình (25,9%)… [13]. Sự chênh lệch ở mức từ 2-4 lần giữa miền xuôi và miền núi cho thấy mức độ trầm trọng của SDD trẻ em khu vực miền núi. Đakrông là một huyện miền núi vùng cao biên giới phía Tây Nam của tỉnh Quảng Trị, là nơi có nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống trong đó chủ yếu là dân tộc Vân Kiều và Pakoh (chiếm 82%, theo số liệu cục thống kê tỉnh Quảng Trị). Đời sống kinh tế của người dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng này rất cao. Theo một đánh giá về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi được thực hiện tại Đakrông và 3 Hướng Hóa vào tháng 12/2009 cho thấy rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở đây rất cao: 41.9% (thể nhẹ cân), 44.1% (thể thấp còi) và 13,4% (thể gầy còm) [23]. Trẻ em dưới 36 tháng tuổi bị suy dinh dưỡng có nhiều nguyên nhân, trong đó nhiễm giun đường ruột là một nguyên nhân cần được quan tâm. Nhiễm giun gây nên chán ăn, hấp thu kém, tiêu hóa kém, viêm mạn tính ống tiêu hóa, cạnh tranh sử dụng và làm tăng mất các chất dinh dưỡng: protein, lipid, vitamin A... Lâu dài, giun làm suy dinh dưỡng-thiếu máu, chậm phát triển thể chất và tinh thần [24], [37]. Các nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ em dân tộc thiểu số còn rất ít, là lý do chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với 2 mục tiêu sau: (1) Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ em 12-36 tháng tuổi tại vùng đồng bào dân tộc Pakoh và Vân Kiều của huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị. (2) Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ 12-36 tháng tuổi tại vùng đồng bào dân tộc Pakoh và Vân Kiều của huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. Các thời kỳ phát triển của trẻ em và các đặc điểm sinh học cơ bản của trẻ dưới 3 tuổi: 1.1.1. Cách phân chia các thời kỳ: Cơ thể trẻ em có những đặc điểm riêng về cấu tạo và sinh lý. Từ lúc thụ thai đến tuổi trưởng thành trẻ phải trải qua hai hiện tượng: trước hết là sự tăng trưởng, phát triển về số lượng và kích thước của tế bào ở các mô; sau đó là sự trưởng thành về cấu trúc, chức năng các cơ quan. Quá trình lớn lên và phát triển của trẻ có tính chất toàn diện, cả về thể chất, tâm thần và vận động. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng về bệnh lý và sinh lý. Sự phân chia các thời kỳ (giai đoạn) của trẻ em là một thực tế khách quan, nhưng ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng và có sự khác biệt đối với từng đứa trẻ, giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau. Theo WHO trẻ em bao gồm từ 0 đến 18 tuổi, được phân chia cụ thể như sau [30]: - Sơ sinh (newborn): từ lúc sinh đến 1 tháng - Trẻ bú mẹ (infant): 1 đến 23 tháng - Trẻ tiền học đường (preschool child): 2 đến 5 tuổi - Trẻ em nhi đồng (child): 6 đến 12 tuổi - Trẻ vị thành niên (adolescent): 13 đến 18 tuổi 5 1.1.2. Đặc điểm sinh học cơ bản của trẻ dưới 3 tuổi: Lứa tuổi này tốc độ lớn có giảm so với lứa tuổi trước 12 tháng nhưng vẫn còn cao đồng thời các hoạt động đã bắt đầu tăng lên cùng theo với tuổi tập đi, tập nói... do đó tiêu hao năng lượng so với cơ thể vẫn cao. Trẻ từ 1-3 tuổi, cơ quan tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh, do vậy các thức ăn cho trẻ cần phải dễ tiêu hóa, giàu các chất dinh dưỡng có giá trị cao và đủ các nhóm thực phẩm trong ô dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu các chất dinh dưỡng. Đảm bảo tốt vệ sinh thực phẩm và ăn uống để phòng tránh nhiễm khuẩn và các bệnh đường ruột ở trẻ. Do tiếp xúc rộng rãi với môi trường nên trẻ dễ bị lây các bệnh truyền nhiễm (sởi, ho gà, bạch hầu, uốn ván, viêm gan virus, sốt xuất huyết). Hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, các bệnh nhiễm trùng giảm, nhưng trẻ lại bị các bệnh dị ứng như viêm cầu thận cấp, hen suyễn, nổi mề đay [30]. 1.1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 3 tuổi: Nhu cầu năng lượng theo bảng khuyến nghị của Việt Nam cho trẻ từ 1-3 tuổi là 1300 kcal (100 kcal/kg cân nặng), trong đó 50% đáp ứng cho chuyển hóa cơ bản, 12% cho tăng trưởng, 25% cho hoạt động thể lực [14]. Trong chế độ ăn của trẻ dưới 3 tuổi, nhu cầu protein hàng ngày là 28g/ngày (2,5g-3g/kg cân nặng của trẻ). Trong đó, protein có nguồn gốc động vật chiếm 50-60% tổng số protein [14]. Nhu cầu lipid ở trẻ đảm bảo cho nhu cầu về năng lượng (1g chất béo cung cấp 9 kcal), cung cấp các acid béo cần thiết và hỗ trợ cho việc hấp thu các vitamin tan trong dầu (A,D,E,K) [30] Chế độ ăn của trẻ có 60-65% kcal từ glucid, chủ yếu từ ngũ cốc, khoai củ, một số loại rau củ… 6 Ở lứa tuổi này hàng ngày cần cung cấp 400-500mg canxi, là chất khoáng rất cần cho sự tạo xương, tạo răng, tạo máu và các hoạt động chức năng sinh lý của cơ thể. Trẻ cần 6-7mg sắt mỗi ngày cho sự tạo máu và tham gia vào thành phần nhiều men quan trọng trong cơ thể [14]. Mọi vitamin đều cần thiết cho trẻ, trong đó cần chú ý cung cấp đủ vitamin A (400µg) và vitamin C (35mg) là những vitamin rất cần cho sự phát triển bình thường của trẻ, cần cho sự tạo máu, tăng cường sức chống đỡ với bệnh tật [11]. Số bữa ăn trong ngày nên từ 4-5 bữa, với chế độ ăn riêng của trẻ, các thức ăn mềm và tập dần cho trẻ ăn từng loại thức ăn từ ít đến nhiều, cho đến thức ăn hỗn hợp. 1.2. Tình hình SDD protein năng lượng của trẻ em 1.2.1. Tình hình SDD protein năng lượng trên Thế giới: Theo báo cáo của UNICEF công bố ngày 2/5/2006 cho thấy hơn 1/4 trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển ở tình trạng SDD nhẹ cân, cuộc sống đang bị đe doạ. Dinh dưỡng không đầy đủ vẫn là đại dịch toàn cầu dẫn đến một nửa số ca tử vong là trẻ em, khoảng 5,6 triệu trẻ em mỗi năm. Mặc dù đã có tiến bộ ở một số quốc gia, nhưng trong 15 năm vừa qua các quốc gia đang phát triển trung bình mới chỉ giảm được 1,5% trẻ em SDD nhẹ cân [20]. Thống kê tỷ lệ SDD qua các cuộc điều tra quốc gia từ 1980-1992 của 79 nước đang phát triển cho thấy tỷ lệ SDD là 35,8%, tỷ lệ trẻ em còi cọc là 42,7% và tỷ lệ trẻ em gầy còm là 9,2 %. Châu Á có tỷ lệ SDD cao nhất so với các châu lục khác: 42% trẻ em SDD, 47,1% trẻ em còi cọc và 10,8% trẻ gầy còm. Châu Úc có 29,1% trẻ em SDD, 41,9% trẻ em còi cọc, 7,2% trẻ em gầy còm. Châu Phi có 27,4% trẻ em SDD, 38,6% trẻ em còi cọc và 7,2% trẻ em 7 gầy còm. Có ít nhất 2/3 số trẻ em châu Á và 1 nửa số trẻ em SDD trên thế giới sống ở khu vực Nam Á [45]. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở Việt Nam tuy đã giảm nhiều, nhưng vẫn còn ở mức cao so với trung bình các nước trong khu vực và các nước đang phát triển có thu nhập đầu người tương tự. Bảng 1.1. Suy dinh dưỡng trẻ em Việt Nam so với khu vực và Thế giới - Năm 2000 [9] SDD Khu vực Thể nhẹ cân (%) Thể thấp còi (%) Thể gầy còm (%) Banglades 56 55 18 Việt nam 34 36 8 Thái Lan 19 16 6 Philippin 28 30 6 Indonesia 34 42 13 Lào 40 47 11 Campuchia 52 56 13 Trung Quốc 10 17 11 Theo báo cáo của UNICEF (Quĩ Nhi đồng của Liên Hiệp Quốc) năm 2007, trên thế giới có khoảng 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, phần lớn tập trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Trong số này có khoảng 2 triệu trẻ em từ Việt Nam. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2007, số trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta có khoảng 9,4 triệu, có đến 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thiếu cân (chiếm 21,2%) [13]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X đã đề ra chỉ tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng xuống dưới 20% vào năm 2010 [29]. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em tuy có xu 8 Diễn biến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc (1999 – 2010) 36,7 33,8 31,9 30,1 28,4 26,6 25,2 23,4 21,2 19,9 18,9 17,5 38,7 36,5 34,8 33 32,0 30,7 29,6 31,9 33,9 32,6 31,9 29,3 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 % Thể nhẹ cân Thể thấp còi hướng giảm, nhưng vẫn còn khoảng 1/3 trẻ em cơ thể trong tình trạng kém phát triển. Con số này đặt nước ta vào số 36 nước có tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng cao nhất thế giới, và đó là một vấn đề y tế công cộng rất lớn. 1.2.1 Tình hình SDD protein năng lượng trẻ em tại Việt Nam Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em Việt Nam còn là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội. Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Việt Nam từ năm 1999 đến năm 2010 cho thấy tình tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em trong cộng đồng đã giảm, nhưng vẫn là một mức cao theo tiêu chuẩn đánh giá của WHO [12]. Suy dinh dưỡng trẻ em làm ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đến sự phát triển của kinh tế-xã hội, làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong ở trẻ em lên 2,5-2,8 lần so với trẻ bình thường. Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam qua các năm 1999-2010 [13]. Tháng 10/1999, Trương Thị Sương và cộng sự tiến hành khám lưu động cho 5.084 trẻ em, trong đó có 1.906 trẻ dưới 5 tuổi tại 18 xã thuộc 9 huyện của tỉnh Quảng Nam cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng là 42,47%, trong đó suy 9 dinh dưỡng nặng và rất nặng chiếm 11,38%. Nhóm tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp nhất là từ 0-12 tháng, nhóm có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất là từ 24-36 tháng (56,0%) [35]. Kết quả điều tra trên 749 trẻ từ 0-60 tháng tuổi của Đinh Văn Thức và cộng sự tại hai xã Đặng Cương và Quốc Tuấn, huyện An Hải, Hải Phòng năm 2000 cho thấy tỷ lệ SDD thể thấp còi chiếm 42,32%, thể nhẹ cân là 4,41% và thể gày mòn là 2,80%. Tỷ lệ SDD cao nhất ở nhóm tuổi 13-24 tháng (42,76%), thấp nhất ở nhóm 0-12 tháng tuổi (23,42%) [38]. Qua cuộc tổng điều tra về dinh dưỡng năm 2000 cho thấy, tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi còn có sự chênh lệch giữa các nhóm tuổi khác nhau [8]: tỷ lệ SDD ở nhóm trẻ dưới 12 tháng tuổi là thấp nhất đối với cả 3 thể ( thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể gầy còm), sau đó tăng lên nhanh ở cả 3 chỉ tiêu cho tới 2-3 tuổi và tiếp tục duy trì ở mức cao trong những năm tiếp theo. Điều đó cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi ở cả 3 chỉ tiêu (CN/T, CC/T, CN/CC) đều đã giảm nhưng các đặc điểm SDD ở trẻ em nước ta đã được nghiên cứu trước đây vẫn còn ý nghĩa và chương trình phòng chống SDD trẻ em cần tiếp tục được đẩy mạnh. 12.9 19 6 36.3 41.8 12.2 40.9 38.6 9.2 40.2 43 8.5 41.7 44.8 8.8 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 % ≤12 tháng 13-24 tháng 25-36 tháng 37-48 tháng 49-60 tháng Tháng tuổi SDD W/A(%) SDD H/A(%) SDD W/H(%) Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ (%) SDD trẻ em dưới 5 tuổi theo nhóm tháng tuổi [8] 10 Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cũng khác nhau rất nhiều giữa các vùng sinh thái. Tỷ lệ cao nhất ở vùng Tây Nguyên vì đây là vùng nghèo, còn nhiều khó khăn, mùa màng thường xuyên chịu tác động nặng nề bởi thiên tai, lũ lụt. Thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long. Bảng 1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam phân bố theo vùng sinh thái - Năm 2009 [11] Tỷ lệ % Tên vùng Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm Toàn quốc 18,9 31,9 6,9 Đồng bằng sông Hồng 16,7 27,8 6,6 Tây Bắc 24,6 35,7 7,8 Đông Bắc 22,3 34,8 7,0 Bắc Trung Bộ 22,9 34,3 6,9 Nam Trung Bộ 19,3 31,8 7,1 Tây Nguyên 28,5 39,2 7,3 Đông Nam Bộ 16,4 18,1 6,8 Đồng bằng sông Cửu Long 18,7 19,1 6,7 Có sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ SDD trẻ em ở thành thị và nông thôn. Điều này lý giải bởi sự bất cập trong việc tiếp cận dịch vụ Y tế, trình độ dân trí và khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực nông thôn, miền núi so với các thành phố lớn và các khu đô thị. 11 Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD trẻ em theo khu vực - Năm 2005 [7] Tỷ lệ % Khu vực Nhẹ cân Thấp còi Gày còm Thành thị 19,6 21,9 4,7 Nông thôn 29,3 34,1 7,5 Chung 25,2 29,6 6,9 1.3. Phương pháp đánh giá tình trạng SDD trẻ em : 1.3.1. Khái niệm : Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và các vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng ít nhiều đều có ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần và vận động của trẻ [30]. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em Hiện nay có 4 nhóm chỉ tiêu được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em [24]: - Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống. - Thăm khám thực thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có liên quan đến ăn uống. - Các chỉ tiêu nhân trắc. - Các xét nghiệm hóa sinh. Trong đó 2 nhóm chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất là nhân trắc và điều tra khẩu phần ăn mà các số đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp tình trạng dinh dưỡng. WHO đã khuyến cáo có 3 chỉ tiêu nhân trắc nên dùng là cân nặng theo tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi [41]. Cụ thể như sau 12 • Cân nặng theo tuổi: Là chỉ số được dùng sớm nhất và phổ biến nhất. Chỉ số này được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của cá thể hay cộng đồng. Cân nặng theo tuổi thấp là hậu quả của thiếu dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số cân nặng theo tuổi nhạy có thể quan sát trong 1 thời gian ngắn. • Chiều cao theo tuổi: Phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc thuộc về quá khứ làm cho đứa trẻ bị còi. • Cân nặng theo chiều cao: Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số này phản ánh tình trạng SDD cấp hay còn gọi “Wasting”. Cân nặng theo chiều cao thấp phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều cao, chính là phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. 1.3.3. Cách phân loại suy dinh dưỡng 1.3.3.1. Phân loại theo Gomez (1956) Là phân loại được dùng sớm nhất, nó chỉ dựa trên chỉ só cân nặng theo tuổi và sử dụng quần thể tham khảo Tiêu chuẩn Mức độ SDD Từ 70%-90% của cân nặng chuẩn SDD độ I Từ 60%-75% của cân nặng chuẩn SDD độ II Từ dưới 60% của cân nặng chuẩn SDD độ III Cách phân loại này không phân biệt giữa SDD cấp hay mãn cũng như giữa Marasmus và Kwashiorkor bởi vì cách phân loại này không đánh giá tới chiều cao. 13 1.3.3.2. Phân loại theo Wellcome (1970) Cân nặng (%) so với chuẩn Phù Có Không 60%-80% Kwashiorkor SDD I, II <60% Marasmus + Kwashiorkor Marasmus 1.3.3.3. Phân loại theo Waterlow (1972) Để khắc phục nhược điểm phân loại Wellcome là không phân biệt được suy dinh dưỡng hiện tại hay quá khứ Chiều cao theo tuổi (90%hay - 2SD) Cân nặng theo chiều cao (80% hay -2SD) Trên Dưới Trên Bình thường Thiếu DD gầy còm Dưới Thiếu DD thấp còi Thiếu DD nặng kéo dài Thiếu dinh dưỡng gầy còm là thiếu dinh dưỡng cấp tính. Thiếu dinh dưỡng thấp còi là biểu hiện thiếu dinh dưỡng trường diễn và đã chịu thiếu dinh dưỡng từ lâu. 1.3.3.4. Phân loại theo WHO 2005: SDD trong cộng đồng được chia thành 3 thể: SDD nhẹ cân, SDD thấp còi và SDD gày còm [50].Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng là cân nặng theo tuổi (CN/T), chiều cao theo tuổi (CC/T), cân nặng theo chiều cao (CN/CC). Suy dinh dưỡng được ghi nhận khi các chỉ tiêu nói trên thấp hơn hai độ lệch chuẩn (< -2SD) so với quần thể tham chiếu NCHS (National Center For Health Statistics) của Hoa Kỳ [49]. Đây là cách phân loại đơn giản cho phép đánh giá nhanh các mức độ SDD và có thể áp dụng rộng rãi trong cộng đồng. 14 Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng quần thể tham chiếu NCHS để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em không phù hợp với thực tế vì vậy để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ năm 2006 WHO đưa ra “chuẩn tăng trưởng mới ở trẻ em” và đề nghị áp dụng trên toàn thế giới [51]. Dựa vào các chỉ tiêu nhân trắc: tuổi, giới, cân nặng, chiều cao đo được và số trung bình của quần thể tham chiếu WHO 2005 để tính toán các chỉ số Z–score cân nặng theo tuổi (WAZ), Z–score chiều cao theo tuổi (HAZ), Z–score cân nặng theo chiều cao (WHZ). WHO đề nghị lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (< - 2SD) so với quần thể tham chiếu WHO 2005 để đánh giá trẻ bị suy dinh dưỡng.: Công thức tính độ lệch chuẩn Z-score ( SD score ): - SDD thể nhẹ cân: CN/T Z-score (WAZ) < - 2SD; - SDD thể thấp còi: CC/T Z-score (HAZ) < - 2SD - SDD thể gày còm: CN/CC Z-score (WHZ) < - 2SD. WHO cũng đưa ra các mức phân loại sau đây để nhận định ý nghĩa sức khỏe cộng đồng [48]. Bảng 1.4. Phân loại mức suy dinh dưỡng cộng đồng trẻ dưới 5 tuổi [48] Mức độ suy dinh dưỡng theo tỷ lệ % Thấp T/bình Cao Rất cao Thấp còi ( Stunting ) < 20 20-29 30-39 ≥ 40 Nhẹ cân ( Underweight) < 10 10-19 20-29 ≥ 30 Gầy còm ( Wasting ) < 5 5-9 10-15 ≥ 15 Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu Z-score hay SD score = Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu Chỉ tiêu 15 1.3.4. Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng : Tác giả Lê Thị Hương, Trần Thị Lan đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi tại Đakrông và Hướng Hóa vào tháng 12/2009 cho thấy rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở đây rất cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới hai tuổi là 41.9% (thể nhẹ cân); 44.1% (thể thấp còi) và 13,4% ( thể gầy còm) trong khi tỷ lệ trẻ được cung cấp đầy đủ 4 nhóm thực phẩm vào ngày hôm trước rất thấp (13,3%), có đến 45% và 60% bị tiêu chảy và nhiếm trùng đường hô hấp trong 2 tuần qua [23]. Nghiên cứu của Vũ Phương Hà và cộng sự tại hai huyện Hướng Hóa và Đakrông của tỉnh Quảng trị trong năm 2010 cho thấy: tỷ lệ SDD cao ở cả 3 chỉ số, trong đó SDD thể nhẹ cân là 42,1% (CN/T), thể thấp còi 48,2% (CC/T) và thể gầy còm 13,9% (CN/CC). Trên 50% các bà mẹ cho rằng phải cho con ăn bổ sung trước 6 tháng hoặc không biết nên bắt đầu cho ăn vào thời điểm nào [15]. Tác giả Lương Thị Thu Hà tiến hành nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên năm 2008 nhận thấy tỷ lệ SDD ở thể nhẹ cân (35,4%), thể thấp còi (41,5%) và thể gầy còm (8,4%), độ tuổi có tỷ lệ SDD cao ở nhóm tuổi 13 - 48 tháng tuổi. Ở thể nhẹ cân, tỷ lệ SDD trẻ gái cao hơn trẻ trai, ở trẻ em người dân tộc thiểu số cao hơn trẻ em người Kinh. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra một số yếu tố nguy cơ đối với SDD thể nhẹ cân ở trẻ em như thời gian ăn bổ sung không đúng, chất lượng thức ăn bổ sung không đảm bảo và tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, hô hấp [16]. 16 1.4. Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên Thế giới và ở Việt Nam 1.4.1. Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên thế giới Nhiễm giun là bệnh thường gặp nhất ở người, hay gặp ở c
Luận văn liên quan