Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học và thực trạng cấp cứu ban đầu ở bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại bệnh viện Quân y 103

Gãy xương cơ quan vận động bao gồm gãy cột sống, gãy khung chậu và gãy xương tứ chi. Có nhiều nguyên nhân gây gãy xương cơ quan vận động và ở mỗi Quốc gia, mỗi khu vực thì cơ cấu, tỷ lệ, đặc điểm phân bố và nguyên nhân gãy xương cũng rất khác nhau. Trên thế giới, hàng ngày có khoảng 16 nghìn người chết do chấn thương (Mack C. Và cộng sự, 2004). Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông là 27/100.000 dân, cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn cầu là 19/100.000 dân (Tạ Văn Trâm, 2006). Gãy xương là một cấp cứu ngoại khoa nặng, nhưng nếu được sơ cứu, cấp cứu ban đầu kịp thời và đúng cách với các biện pháp như phòng chống sốc, cố định ổ gãy, phòng chống di lệch và thương tổn thứ phát, vận chuyển sớm thì sẽ tạo điều kiện tốt cho điều trị ở tuyến sau có kết quả. Do vậy, vấn đề cấp cứu ban đầu đóng vai trò rất quan trọng. Việc sơ cấp cứu đúng cách, cố định ổ gãy vững chắc sẽ giảm tỷ lệ các biến chứng toàn thân và tại chỗ như sốc, tổn thương gãy kín thành gãy hở và tổn thương mạch máu, thần kinh. Mặt khác việc sơ cấp cứu sớm còn tạo điều kiện cho tuyến sau xử trí được thuận lợi hơn.Việc sơ cấp cứu ban đầu kịp thời và hiệu quả là vô cùng quan trọng để giảm mức độ trầm trọng và tử vong do thương tổn từ các tai nạn thương tích đem lại (Nguyễn Thúy Quỳnh, 2013). Các nghiên cứu về gãy xương do tại nạn thương tích đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều có các trung tâm phòng ngừa tai nạn và thương tích. Ở Việt Nam, trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, khía cạnh dự phòng tai nạn thương tích, dự phòng gãy xương, sơ cấp cứu ban đầu khi bị gãy xương mới được chú ý.

docx27 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 763 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học và thực trạng cấp cứu ban đầu ở bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại bệnh viện Quân y 103, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y NGUYỄN HỮU CHIẾN NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC VÀ THỰC TRẠNG CẤP CỨU BAN ĐẦU Ở BỆNH NHÂN GÃY XƯƠNG CƠ QUAN VẬN ĐỘNG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 Chuyên ngành: Ngoại khoa Mã số: 9720104 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC HÀ NỘI - 2019 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI HỌC VIỆN QUÂN Y Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Tiến Bình 2. PGS.TS. Phạm Đăng Ninh Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Văn Thạch Phản biện 2: PGS.TS. Nghiêm Đình Phàn Phản biện 3: PGS.TS.Nguyễn Thái Sơn Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại ................................ vào hồi: giờ, ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc Gia ........................................... ... ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết Gãy xương cơ quan vận động bao gồm gãy cột sống, gãy khung chậu và gãy xương tứ chi. Có nhiều nguyên nhân gây gãy xương cơ quan vận động và ở mỗi Quốc gia, mỗi khu vực thì cơ cấu, tỷ lệ, đặc điểm phân bố và nguyên nhân gãy xương cũng rất khác nhau. Trên thế giới, hàng ngày có khoảng 16 nghìn người chết do chấn thương (Mack C. Và cộng sự, 2004). Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông là 27/100.000 dân, cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn cầu là 19/100.000 dân (Tạ Văn Trâm, 2006). Gãy xương là một cấp cứu ngoại khoa nặng, nhưng nếu được sơ cứu, cấp cứu ban đầu kịp thời và đúng cách với các biện pháp như phòng chống sốc, cố định ổ gãy, phòng chống di lệch và thương tổn thứ phát, vận chuyển sớm thì sẽ tạo điều kiện tốt cho điều trị ở tuyến sau có kết quả. Do vậy, vấn đề cấp cứu ban đầu đóng vai trò rất quan trọng. Việc sơ cấp cứu đúng cách, cố định ổ gãy vững chắc sẽ giảm tỷ lệ các biến chứng toàn thân và tại chỗ như sốc, tổn thương gãy kín thành gãy hở và tổn thương mạch máu, thần kinh. Mặt khác việc sơ cấp cứu sớm còn tạo điều kiện cho tuyến sau xử trí được thuận lợi hơn...Việc sơ cấp cứu ban đầu kịp thời và hiệu quả là vô cùng quan trọng để giảm mức độ trầm trọng và tử vong do thương tổn từ các tai nạn thương tích đem lại (Nguyễn Thúy Quỳnh, 2013). Các nghiên cứu về gãy xương do tại nạn thương tích đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều có các trung tâm phòng ngừa tai nạn và thương tích. Ở Việt Nam, trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, khía cạnh dự phòng tai nạn thương tích, dự phòng gãy xương, sơ cấp cứu ban đầu khi bị gãy xương mới được chú ý. Để có những thông tin cơ bản, hệ thống về đặc điểm dịch tễ học của gãy xương cơ quan vận động và thực trạng cấp cứu ban đầu tại các tuyến trước bệnh viện, đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học và thực trạng cấp cứu ban đầu ở bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại Bệnh viện Quân y 103” được tiến hành với các mục tiêu sau: 1. Xác định một số đặc điểm dịch tễ học gãy xương cơ quan vận động ở bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 giai đoạn 2010-2014. 2. Khảo sát thực trạng cấp cứu ban đầu bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 trong thời gian trên. 2. Ý nghĩa khoa học Luận án cung cấp các dữ liệu về một số đặc điểm dịch tễ học gãy xương cơ quan vận động: Các kết quả về đặc điểm tuổi, giới và nghề nghiệp của người bị gãy xương; đặc điểm về nguyên nhân và thời gian xảy ra gãy xương; đặc điểm về cơ cấu và tính chất gãy xương Bên cạnh đó, luận án đã cung cấp thông tin về thực trạng sơ cấp cứu ban đầu và điều trị các bệnh nhân gãy xương ở cơ quan vận động. Các kết quả về tỷ lệ bệnh nhân được sơ cấp cứu, thời gian cho từ khi bị nạn cho đến khi được cấp cứu, phương tiện vận chuyển, tỷ lệ gãy xương được cấp cứu đúng nguyên tắc. 3. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả về một số đặc điểm dịch tễ học gãy xương ở cơ quan vận động và thực trạng sơ cấp cứu ban đầu và điều trị các bệnh nhân gãy xương ở cơ quan vận động là cơ sở để xây dựng kế hoạch tăng cường đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động cấp cứu ban đầu cho các tuyến trước bệnh viện, tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức sơ cấp cứu tai nạn thương tích cho y tế cơ sở và tăng cường công tác phối hợp hợp đồng giữa bệnh viện và tuyến trước để nâng cao chất lượng cấp cứu ban đầu gãy xương ở cơ quan vận động. 4. Cấu trúc của luận án Luận án gồm 111 trang: Đặt vấn đề 2 trang; Chương 1 (Tổng quan) 40 trang; Chương 2 (Đối tượng và phương pháp nghiên cứu) 12 trang; Chương 3 (Kết quả nghiên cứu) 27 trang; Chương 4 (Bàn luận) 27 trang; Kết luận 2 trang và Kiến nghị 1 trang. Luận án có 30 bảng, 6 biểu đồ, 3 hình và 116 tài liệu tham khảo (31 tài liệu tiếng Việt, 85 tài liệu tiếng Anh). Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tổng quan gãy xương và phân loại gãy xương Gãy xương là tình trạng thương tổn làm mất tính liên tục của xương do nguyên nhân chấn thương hoặc do bệnh lý. Gãy xương cơ quan vận động bao gồm gãy xương tứ chi, gãy xương cột sống, gãy xương chậu và gãy một số xương khác (xương đòn, xương bả vai, xương bánh chè). Hiện nay, có nhiều cách phân loại gãy xương đang được áp dụng trên lâm sàng. Phân loại gãy xương theo nguyên nhân được chia thành do chấn thương và do bệnh lý (viêm xương, giang mai xương, do u ác tính nguyên phát ở xương, do di căn ung thư xương, do mỏi mệt,do tai biến sản khoa...). Phân loại tổn thương phần mềm gồm phân loại gãy xương hở của Gustilo và Anderson, phân loại tổn thương phần mềm của Oestern và Tscherne. Phân loại tổn thương ở xương theo cơ chế chấn thương, vị trí gãy, hình thái và tính chất gãy, theo Quinquist và Hansen, phân loại tổng hợp AO. 1.2. Dịch tễ học gãy xương cơ quan vận động Tình hình GX cơ quan vận động đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu như Trung Quốc, Iran, Ấn Độ, Brasil, Mỹ Johansen A. và cs. nghiên cứu các trường hợp GX vào khoa cấp cứu của Bệnh viện (BV) Hoàng gia Cardiff thấy tần suất GX là 21,1/1000 người/năm (nam: 23,5/1.000 người/năm; nữ: 18,8/1.000 người/ năm). Tần suất GX tương tự với kết quả nghiên cứu ở Mỹ, Úc và Na Uy, nhưng cao hơn tần suất GX ở Anh vào những năm 1960 (9/1.000 người/năm) (Johansen A. và cộng sự, 1997). Tại Việt Nam, GX ở cơ quan vận động là nguyên nhân gây tử vong và tàn tật hàng đầu. Năm 2008, gánh nặng bệnh tật do tàn tật ở cả hai giới đều là 2,7 triệu YLD (Trường Đại học Y tế công cộng, 2011). Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ GX có những điểm rất khác biệt, sự khác biệt không chỉ theo tuổi, giới, vùng miền, thậm chí còn theo cả chủng tộc, màu da. Tỷ lệ GX cánh tay chiếm khoảng 1- 3% tổng số GX. Gãy thân hai xương cẳng tay chiếm khoảng 1,2% tổng số GX, gãy thân xương đùi chiếm khoảng 0,9% tổng số GX, GX cột sống chiếm 3 - 4% trong tổng số GX... 1.3. Tình hình sơ cấp cứu - chẩn đoán gãy xương tại Việt Nam Tình hình cấp cứu vận chuyển bệnh nhân ở các nước khác nhau trên thế giới rất đa dạng về hình thức, với nhiều loại hình lực lượng tham gia, mức độ được đào tạo khác nhau, được triển khai với quy mô quốc gia, vùng hay địa phương, với thời gian tiếp cận với dịch vụ vận chuyển khác nhau. Có nhiều phương pháp vận chuyển bệnh nhân tới bệnh viện như các phương tiện đơn giản (xe thô sơ, xe kéo...), các phương tiện cơ giới (xe máy, ô tô, xe bus nhỏ...) và các phương tiện hiện đại, có tốc độ cao (máy bay). Các quốc gia đều rất coi trọng vấn đề đào tạo những người phản ứng đầu tiên tại hiện trường về các kỹ thuật cấp cứu và vận chuyển bệnh nhân chấn thương. Tỷ lệ nạn nhân GX không được sơ cứu là 82,14%, trong đó GX chi trên và chi dưới chiếm tỷ lệ 32,61% và 43,48%. Tỷ lệ nạn nhân gãy xương được cố định bằng băng hoặc nẹp là 8,93% (Đồng Ngọc Đức và cộng sự, 2009). Trong số những trường hợp tai nạn thương tích, đa phần đánh giá việc sơ cấp cứu là tốt và hiệu quả: có 9,2% trả lời là rất hiệu quả, 74,5% khẳng định là hiệu quả. Tỷ lệ cho rằng việc sơ cấp cứu hiệu quả và rất hiệu quả là khá cao ở Thái Nguyên (98%), Thái Bình (94%), và Đồng Tháp (93%) (Nguyễn Thúy Quỳnh và cộng sự, 2003). Hiện nay, hệ thống cấp cứu 115 chủ yếu làm nhiệm vụ cấp cứu các bệnh thông thường, số nạn nhân TNGT được vận chuyển, cấp cứu bằng Hệ thống cấp cứu 115 còn thấp, chỉ chiếm khoảng 10 - 15% số nạn nhân TNGT đến các CSYT. Nhiều trường hợp bệnh cấp cứu kể cả nạn nhân TNGT phải vận chuyển bằng các phương tiện không đảm bảo chuyên môn dễ gây biến chứng hoặc tử vong trước khi đến bệnh viện. Nhiều nạn nhân không được vận chuyển đến bệnh viện bằng các xe cấp cứu chuyên dụng mà bằng các phương tiện khác như xe taxi, xe ôm hoặc thậm chí bằng cả xe tải do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do thiếu xe cấp cứu. Phương tiện chủ yếu mà người dân dùng để đưa nạn nhân đến CSYT là xe máy, thời gian để đến được các CSYT đó là dưới 30 phút (58,6%) và từ 30 đến 60 phút (30,4%) (Nguyễn Thúy Quỳnh và cộng sự, 2003). Thực tế cho thấy ở Việt Nam, sau TNGT, phần lớn các nạn nhân thường được những người xung quanh đưa vào viện bằng bất cứ phương tiện gì sẵn có và chủ yếu thường là xe máy. Tỷ lệ chuyển bằng xe máy từ hiện trường đến BV là 84,48% (Phạm Thị Mỹ Ngọc, 2013). vận chuyển nạn nhân GX từ phương tiện vận chuyển vào phòng khám khu vực chủ yếu vẫn bằng khiêng tay 33,3%; vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ cõng, bế, dìu, thể hiện hiện trạng thiếu thốn phương tiện vận chuyển, và trình độ vận chuyển vẫn còn nhiều hạn chế (Đồng Ngọc Đức, 2009). Có 6,9% trường hợp đến BV trên 60 phút (3 phút- 100 phút) (Phạm Thị Mỹ Ngọc, 2013). Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là 4918 bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại bệnh viện Quân y 103 trong thời gian 5 năm (2010-2014). * Tiêu chuẩn lựa chọn: - Bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động có hồ sơ bệnh án đầy đủ và ghi chép rõ ràng tất cả các thông tin cần thiết theo mẫu bệnh án nghiên cứu. - Được điều trị đầu tiên tại Bệnh viện Quân y 103 (sau khi bị gãy xương được sơ cấp cứu ban đầu tại chỗ, tại tuyến y tế cơ sở hoặc tại phòng khám khu vực mà chưa từng vào điều trị tại một bệnh viện nào khác). - Các bệnh nhân được chẩn đoán là gãy xương cánh tay, gãy xương cẳng tay, gãy xương bàn-ngón tay; gãy xương đùi, gãy xương cẳng chân, gãy xương bàn - ngón chân, gãy xương cột sống, gãy xương chậu đơn thuần hoặc kết hợp với các tổn thương khác (có đầy đủ phim XQ xác định có gãy xương). * Tiêu chuẩn loại trừ: - Bệnh nhân nhập viện điều trị lại lần 2, lần 3 kể từ khi bị chấn thương gãy xương. - Bệnh nhân không có đầy đủ các thông tin cần thiết theo mẫu bệnh án nghiên cứu. - Bệnh nhân bị gãy xương do một bệnh lý khác. - Bệnh nhân chấn thương sọ não. - Bệnh nhân chấn thương gãy xương nhưng đã tử vong trước khi đến Bệnh viện. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp với theo dõi tiếp diễn trên tất cả các bệnh nhân gãy xương vào viện. 2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu 2.2.2.1. Cỡ mẫu Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu mô tả: Trong đó: - n: Cỡ mẫu tối thiểu cần cho nghiên cứu - Z1-α/2: Hệ số tin cậy. Với ngưỡng xác suất α = 0,05 (độ tin cậy 95%) thì Z1-α/2 = 1,96 (tra bảng). - p: Tỷ lệ ước đoán một loại gãy xương cơ quan vận động trong tổng số các trường hợp gãy xương. Chúng tôi chọn tỷ lệ này là 3% (0,03) theo bệnh học Chấn thương chỉnh hình của Học viện Quân y xuất bản năm 2006 và theo Nguyễn Tiến Bình năm 2009. - ε: Sai số tương đối có thể chấp nhận. Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn ε = 16% (0,16). Thay các tham số trên vào công thức, cỡ mẫu lý thuyết được tính là 4852. Thực tế chúng tôi đã nghiên cứu 4918 bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động điều trị tại bệnh viện Quân y 103 trong thời gian 5 năm (2010-2014). 2.2.2.2. Phương pháp chọn mẫu Áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, có chỉ tiêu: Đưa vào nghiên cứu tất cả bệnh nhân gãy xương cơ quan vận động đến khám tại Phòng khám Bệnh viện Quân y 103 sau đó được phân bổ về điều trị tại các khoa Chấn thương chỉnh hình, Phẫu thuật thần kinh, Ngoại dã chiến, Hồi sức cấp cứu của Bệnh viện Quân Y 103 cho đến khi ra viện, thỏa mãn đầy đủ tiêu chuẩn lựa chọn, loại trừ nêu trên và cho đến khi đáp ứng đủ số lượng cần thiết tối thiểu cho nghiên cứu. 2.2.3. Phương pháp thu thập thông tin Bộ Công cụ sử dụng để thu thập thông tin cho nghiên cứu là mẫu bệnh án nghiên cứu. Mẫu phiếu này được xây dựng dựa vào các nội dung và mục tiêu nghiên cứu của đề tài, được các chuyên gia thuộc lĩnh vực chuyên ngành góp ý và đã được thử nghiệm và chỉnh sửa trước khi chính thức tiến hành nghiên cứu. 2.2.4. Các biến số nghiên cứu Các thông tin chung của bệnh nhân (tuổi, giới tính, địa chỉ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, trình độ học vấn, nguyên nhân tai nạn, loại phương tiện, thời điểm tai nạn, tình trạng trước sơ cứu, sau sơ cứu và đến viện), vị trí gãy, xương ãy, số xương gãy, tính chất, gãy hở, gãy phạm khớp, tổn thương mạch máu, tổn thương thần kinh, bị chấn thương, nơi sơ cứu ban đầu, thời gian từ lúc bị tai nạn đến khi được sơ cứu, sơ cứu tại y tế cơ sở, sơ cứu tại phòng khám cấp cứu, người sơ cứu, nguyên tắc, phương tiện cố định (độ dài, độ vững chắc), giảm đau, băng bó vết thương, rửa vết thương, kháng sinh và thời điểm dùng, tiêm SAT và nơi tiêm, thời gian từ khi tai nạn đến khi vào viện, nơi chụp X quang, chẩn đoán tuyến cơ sở, phòng khám bệnh Bệnh viện Quân Y 103, chẩn đoán khoa điều trị, chụp CT/MRI. 2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu của các bệnh án nghiên cứu đã được nhập vào máy tính bằng phần mềm Excel, sau đó chuyển qua SPSS 22.0, được phân tích theo mục tiêu nghiên cứu và xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0. Áp dụng các thuật toán thống kê mô tả, tính tần suất, tỷ lệ, trung bình và độ lệch chuẩn, χ2 và p phân tích mối liên quan giữa các biến số. 2.2.6. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu - Đề cương nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của Học viện Quân y thông qua. - Các số liệu, thông tin thu được chỉ phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu khoa học, không phục vụ cho bất kỳ mục đích nào khác. - Các bệnh nhân vào viện do gãy xương cơ quan vận động được sơ cấp cứu tại Phòng Khám bệnh của Bệnh viện, lập hồ sơ và đưa về các khoa lâm sàng điều trị và được điều trị đúng theo quy trình, phác đồ điều trị của bệnh viện. - Các hồ sơ nghiên cứu được lưu trữ cẩn thận, giữ bí mật thông tin và chỉ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học của gãy xương cơ quan vận động Bảng 3.1. Đặc điểm về tuổi và giới của các bệnh nhân gãy xương (n=4918) Nhóm tuổi Nam Nữ Tổng p-values n % n % n % Dưới 20 414 12,2 124 8,1 538 10,9 0,000(*) 20 – 29 992 29,2 242 15,9 1.234 25,1 0,000 30 – 39 667 19,6 244 16,0 911 18,5 0,003 40 – 49 552 16,3 232 15,2 784 15,9 0,331 50 – 59 461 13,6 254 16,7 715 14,5 0,004 60 – 69 186 5,5 207 13,6 393 8,0 0,000 70 – 79 76 2,2 108 7,1 184 3,7 0,000 Từ 80 trở lên 47 1,4 112 7,4 159 3,2 0,000 Tổng 3.395 69,0 1.523 31,0 4.918 100,0 0,000 Tuổi tr.bình ( ± SD) (Min – Max) 36,5 ± 16,3 (1 - 97 tuổi) 46,7 ± 20,1 (2 – 99 tuổi) 39,7 ± 18,2 (1 – 99 tuổi) 0,000 Chú ý: (*): p-value = 0,000 được hiểu là giá trị p < 0,001 (Áp dụng cho toàn bộ luận án) Tuổi trung bình của các BN là 39,7 ± 18,2 tuổi, tuổi thấp nhất là 1 tuổi và cao nhất là 99 tuổi. Tuổi trung bình của các BN là nữ là 46,7 ± 20,1 tuổi, cao hơn so với nhóm bệnh nhân là nam (36,5 ± 16,3 tuổi). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Nhóm tuổi từ 20- 29 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (25,1%), tiếp đến là nhóm 30- 39 tuổi (18,5%), tiếp theo là nhóm 40 – 49 tuổi với 15,9%. Các lứa tuổi từ 50 trở đi, tỷ lệ bị gãy xương có xu hướng giảm dần. Bảng 3.2. Đặc điểm về nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu (n=4918) Nghề nghiệp Nam Nữ Tổng n % n % n % Nông dân 787 23,2 572 37,6 1359 27,6 Công nhân 724 21,3 151 9,9 875 17,8 Viên chức 556 16,4 280 18,4 836 17,0 HS, SV 505 14,9 160 10,5 665 13,5 Bộ đội 181 5,3 10 0,7 191 3,9 Lao động tự do 642 18,9 350 23,0 992 20,2 Tổng 3395 69,0 1523 31,0 4918 100,0 Các nhóm nghề nghiệp khác nhau có số lượng bệnh nhân gãy xương khác nhau. Nhóm nghề là nông dân có số lượng cao nhất, 1359 trường hợp, chiếm tỷ lệ 27,6% so với tổng số, tiếp đến là những người làm nghề tự do (20,2%), công nhân (17,8%), viên chức (17,0%), học sinh, sinh viên (13,5%) và thấp nhất là bộ đội với 3,9%. Bảng 3.3. Phân bố gãy xương theo nguyên nhân (n= 4918) Nguyên nhân Nam Nữ Chung n % n % n % Trong Lao động 403 11,9 66 4,3 469 9,5 Khi tham gia Giao thông Ô tô 1609 47,4 659 43,3 95(4,2%) 46,1 Xe máy 2033(89,6%) Khác 140(6,2%) Trong Sinh hoạt 1383 40,7 798 52,4 2181 44,4 Tổng số 3395 100 1523 100 4918 100,0 Số bệnh nhân gãy xương do tai nạn giao thông chiếm tỷ lệ cao nhất (46,1%), tiếp đến là các tai nạn do sinh hoạt (44,4%) và thấp nhất là do tai nạn lao động (9,5%). Trong số bệnh nhân bị tai nạn giao thông thì tai nạn xe máy chiếm tỷ lệ cao nhất (89,6%), tiếp đến là tai nạn do các hình thức khác (6,2%), tai nạn do ô tô chiếm tỷ lệ thấp (4,2%). Tỷ lệ nam giới bị gãy xương do tai nạn lao động và tai nạn giao thông lần lượt là 11,9% và 47,4% cao hơn so với nữ (4,3% và 43,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Với loại hình tai nạn khác, tỷ lệ bệnh nhân là nữ chiếm 52,4% cao hơn so với nam giới với 40,7%. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Số trường hợp gãy xương có xu hướng tăng lên theo thời gian trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2010 đến 2014. Gãy xương do tai nạn thương tích thường xảy ra vào dịp đầu và cuối năm âm lịch (tháng 2, 3, 9 và 12). Trong ngày tai nạn gãy xương do tai nạn giao thông thường xảy ra vào chiều tối, khoảng 14 – 18 giờ (30,9%), trong khi do lao động và sinh hoạt, tai nạn gãy xương thường xảy ra vào buổi sáng (5 – 11 giờ). Trong số các trường hợp gãy xương cơ quan vận động, tỷ lệ gãy kín là 74,9%, cao hơn so với gãy hở là 25,1%. Gãy xương chi dưới chiếm tỷ lệ cao nhất là 54,2%; chi trên có tỷ lệ thấp hơn là 26,5%, tỷ lệ gãy kết hợp chi là 2,8% trong tổng số các trường hợp gãy xương. Các loại gãy xương khác chiếm tỷ lệ thấp (xương cột sống 11,1%, xương chậu 3,0%). Bảng 3.4. Đặc điểm về số lượng xương bị gãy trên bệnh nhân (n=4918) Số xương bị gãy Số lượng Tỷ lệ (%) 1 xương 4.447 90,42 2 xương 395 8,03 3 xương 69 1,4 4 xương 5 0,1 5 xương 2 0,04 Tổng 4.918 100,0 Tỷ lệ bị gãy 1 xương chiếm tỷ lệ cao nhất với 90,42%, tiếp đến là gãy 2 xương với 8,03%, 3 xương là 1,4%; 4 xương là 0,1% và 5 xương gãy chỉ có 2 bệnh nhân chiếm 0,04%. Các tổn thương phối hợp của gãy xương tứ chi thường gặp là gãy xương phạm khớp, tổn thương mạch máu lớn và tổn thương thần kinh, trong đó ở chi trên dao động từ 29,7% đến 34,3%, ở chi dưới dao động từ 26,1% đến 32,7%. Tỷ lệ có sốc chấn thương của gãy xương chi trên là 5,1% ; gãy xương chi dưới là 6,2% ; tỷ lệ có sốc chấn thương của gãy kết hợp chi là 24,6%. Bảng 3.5. Liên quan giữa vị trí các xương gãy và tính chất gãy xương Xương gãy Gãy hở (n=1.233) Gãy kín (n=3.685) Tổng (n=4.918) p-values n % n % n % Cánh tay 86 7,0 375 10,2 461 9,4 0,001 Cẳng tay 168 13,6 392 10,6 560 11,4 0,004 Bàn-ngón tay 255 20,7 92 2,5 347 7,1 0,0001 Đùi 162 13,1 1064 28,9 1226 24,9 0,0001 Cẳng chân 505 40,9 816 22,1 1321 26,9 0.0001 Bàn-ngón chân 123 10,0 99 2,7 222 4,5 0,0001 Chậu 0 0,00 146 4,0 146 3,0 0,0001 Cột sống 0 0,00 544 14,8 544 11,1 0,0001 Khác 94 7,6 525 14,3 619 12,6 0,0001 - Gãy xương cánh tay chiếm 9,4% trong đó gãy hở có 7% và gãy kín là 10,2%. - Gãy xương cẳng tay chiếm 11,4% trong đó gãy hở có 13,6% và gãy kín là 10,6%. - Gãy xương bàn-ngón tay có 7,1% trong đó gãy hở có 20,7% và gãy kín là 2,5%. - Gãy xương đùi chiếm 24,9% trong đó gãy hở có 13,1% và gãy kín là 28,9%. - Tỷ lệ gãy xương nhiều nhất là gãy hai xương cẳng chân trong đó tỷ lệ gãy hở hai xương cẳng chân (40,9%) là cao hơn có ý nghĩa thống kê so với gãy kín 2 xương cẳng chân (22,1%). - Gãy xương bàn-ngón chân có 4,5% trong đó gãy hở có 10% và gãy kín là 2,7%. - Gãy các xương khác bao gồm như xương hàm m
Luận văn liên quan