Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ. Vì thế nghiên
cứu nghiệp vụ thị trường mở trước hết chúng ta phải tìm hiểu về chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính sách kinh tế vĩ
mô của Nhà nước do Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm khởi thảo và thực thi, thông
qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm
đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế xã hội.
Trong một khoảng thời gian nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc gia thường được
xác định theo hai hướng:
Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng Trung ương sẽ
hoạch định theo hướng chính sách mở rộng tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng vào lưu
thông, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát gia tăng, Ngân hàng Trung ương sẽ
hoạch định chính sách thắt chặt tiền tệ, tức là thu hẹp lượng tiền cung ứng trong lưu thông,
nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá mức của nền kinh tế.
Sự tăng lên (hay giảm đi) của lượng tiền cung ứng đã chuyền tác động của nó tới giá
cả, sản lượng và do đó là công ăn việc làm. Đến lượt nó những biến đổi này là nguyên nhân
mở rộng hay thu hẹp tiền tệ, lãi suất vì thế cũng tăng hay giảm trở lại. Bằng cách tạo ra sự
biến động về tiền tệ, mở rộng hay thu hẹp, các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các
mục tiêu kinh tế vĩ mô và hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
36 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2413 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Thực trạng sử dụng công cụ nghiệp vụ
thị trường mở trong điều hành chính
sách tiền tệ ở Việt Nam
Chương I:
Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở
I-/ Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ
1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ. Vì thế nghiên
cứu nghiệp vụ thị trường mở trước hết chúng ta phải tìm hiểu về chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính sách kinh tế vĩ
mô của Nhà nước do Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm khởi thảo và thực thi, thông
qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm
đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế xã hội.
Trong một khoảng thời gian nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc gia thường được
xác định theo hai hướng:
Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng Trung ương sẽ
hoạch định theo hướng chính sách mở rộng tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng vào lưu
thông, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát gia tăng, Ngân hàng Trung ương sẽ
hoạch định chính sách thắt chặt tiền tệ, tức là thu hẹp lượng tiền cung ứng trong lưu thông,
nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá mức của nền kinh tế.
Sự tăng lên (hay giảm đi) của lượng tiền cung ứng đã chuyền tác động của nó tới giá
cả, sản lượng và do đó là công ăn việc làm. Đến lượt nó những biến đổi này là nguyên nhân
mở rộng hay thu hẹp tiền tệ, lãi suất vì thế cũng tăng hay giảm trở lại. Bằng cách tạo ra sự
biến động về tiền tệ, mở rộng hay thu hẹp, các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các
mục tiêu kinh tế vĩ mô và hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. Như vậy, bản chất của
chính sách tiền tệ là việc chủ động tạo ra các biến động về tiền tệ (xét cả về khối lượng tiền
và giá tiền - lãi suất) với một mục tiêu xác định.
2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
a/ Mục tiêu cuối cùng
ổn định giá cả.
ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu dài hạn. ổn
định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó
làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Sự bất ổn định
giá cả làm méo mó, sai lệch thông tin và do đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên không
đáng tin cậy và không có hiệu quả. Nguy hiểm hơn, nó dẫn đến sự phân phối lại không dân
chủ các nguồn lực kinh tế xã hội giữa các nhóm dân cư.
Mức lạm phát thấp và ổn định sẽ tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu
đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Đây là lợi ích có tầm
quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của xã hội.
Tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Vì một nền kinh tế phồn
thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ một chính sách kinh tế vĩ mô
nào. Trong đó, chất lượng tăng trưởng được biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả
năng cạnh tranh Quốc tế của hàng hoá trong nước tăng lên. Đó chính là nền tảng cho mọi sự
ổn định. Vì nền kinh tế tăng trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, là
công cụ để ổn định tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và
khẳng định vị trí của nền kinh tế trên trường quốc tế.
Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ.
Chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm áp lực xã
hội của thất nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng bởi:
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó
phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội.
- Thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi cá nhân và gia đình của họ và là mầm
mống của các tệ nạn xã hội.
- Các khoản trợ cấp tăng lên có thể làm cho thay đổi cơ cấu chỉ tiêu ngân sách và làm
căng thẳng tình trạng ngân sách.
Để thực hiện được mục tiêu này, mỗi quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên một cách chính xác. Do đó, cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là
một mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài các mục tiêu trên, tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế mà mỗi nước có thể
tập trung vào các mục tiêu cụ thể của riêng mình.
b/ Mục tiêu trung gian
Đây là những mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương thông qua đó ảnh hưởng đến tổng
cầu, từ đó tác động vào mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian phải đáp ứng được 3 tiêu chuẩn chính là: có thể đo lường được
hay đảm bảo tiêu chuẩn định lượng; Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát và chi phối
được và quan trọng hơn cả là nó phải có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng, có khả
năng ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ bao gồm: mức cung tiền tệ (có thể là
M1, M2, M3), lãi suất thị trường trung và dài hạn (có thể là một mức lãi suất cụ thể), tỷ giá,
khối lượng tín dụng. Hiện nay các nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hay lãi suất thị
trường.
c/ Mục tiêu hoạt động
Để chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên, Ngân hàng Trung ương phải lựa chọn
các mục tiêu hoạt động. Đây là chỉ tiêu được Ngân hàng Trung ương lựa chọn để sao cho
khi Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu
trung gian.
Tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động là: phải mang tính định lượng, có thể đo
lường được; phải hết sức nhạy cảm với sự biến động của chính sách tiền tệ và phải tác động
đến mục tiêu trung gian.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm: Dự trữ của các ngân hàng thương mại và lãi suất
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Trong đó, dự trữ của các ngân hàng thương
mại ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, còn lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền
tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó tác động vào lượng tiền
cung ứng.
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các bộ phận mà NHTW can sử dụng nhằm
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó đạt
được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ có thể chia thành hai loại chính là: công
cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
a/ Công cụ trực tiếp
Đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông. Được áp dụng
phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ là hạn mức tín
dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải tôn
trọng trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi
ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng, do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc
làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM.
b/ Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ,
thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là
khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Bao gồm:
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản không
hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi
tại một khoảng thời gian nào đó.
Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là sự
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
Đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng. Nhưng chính
điều này cũng làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường
xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định cho hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho sự điều
chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay đổi dự trữ
bắt buộc (đặc biệt trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực tiếp đến lượng
vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Do đó, nó thường được sử dụng kết hợp với các công
cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng của các ngân hàng khi cần thiết.
Chính sách tái chiết khấu
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quyết định và điều kiện cho vay của NHTM.
Đó là hạn mức chiết khấu, lãi suất chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu. NHTW cho
vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn, chủ yếu là tín phiếu kho
bạc và thương phiếu. Các NHTM đi vay NHTW nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn
khả dụng và hình thành nên bộ phận dự trữ đi vay.
Chính sách tái chiết khấu có khả năng điều tiết một cách linh loạt các mục tiêu trung
gian. Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của nó lại căn cứ vào mức độ phụ thuộc về vốn
của NHTM vào NHTW. Vì thế nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược điểm này,
người ta sử dụng kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc.
Nghiệp vụ thị trường mở
Vì phạm vi của bài viết này chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về nghiệp vụ thị trường
mở. Do đó, công cụ này sẽ được đề cập rõ ràng và đầy đủ hơn ở phần sau.
c/ Công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Tháng 12-1997, Bộ luật Ngân hàng bao gồm Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ
chức tín dụng ra đời thì hệ thống ngân hàng được tiếp tục đổi mới và bước vào thời kỳ đổi
mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó chính sách tiền tệ mới bắt đầu được
xây dựng và từng bước được thực hiện, đi dần từ thấp đến cao phù hợp với điều kiện thực
tế.
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các công cụ của chính sách tiền tệ bao
gồm:
- Dự trữ bắt buộc
- Lãi suất
- Tái cấp vốn
- Nghiệp vụ thị trường mở
- Tỷ giá
II. Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở
1. Khái niệm và cơ chế tác động
Khái niệm: Để xem xét khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở, trước hết ta cần phải
hiểu thị trường mở là gì? Hiểu theo nghĩa rộng, thị trường mở (open market) là một khái
niệm chỉ 5 phạm trù: Thị trường cấp một (sơ cấp), thị trường cấp hai (thứ cấp), thị trường
vốn, thị trường tiền tệ và các thị trường tài chính khác. Còn hiểu theo nghĩa hẹp, thị trường
mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua bán các công cụ tài chính ngắn
hạn.
Vậy nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn hoặc
trung-dài hạn nhưng thời hạn còn lại là ngắn hạn của NHTW trên thị trường mở.
Cơ chế tác động: Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các
mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
Về mặt lượng: là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của NHTM. Khi
NHTW mua (hoặc bán) các chứng từ có giá trên thị trường mở, nó sẽ làm tăng giảm (hoặc
tăng) ngay lập tức dự trữ của các NHTM dù người bán là NHTM hay khách hàng của nó. Vì
thế làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, dẫn đến khả năng tạo tiền gửi thông qua cung
ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm xuống (hoặc tăng lên). Từ đó ảnh hưởng đến
lượng tiền cung ứng.
Về mặt giá: Khi vốn khả dụng của từng ngân hàng cá nhân giảm (tăng) do tác động
của hoạt động thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng giảm
(tăng), trong điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi suất thị trường tiền tệ liên
ngân hàng tăng lên (giảm xuống). Thông qua các hoạt động arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng
này được truyền đến các mức lãi suất của các công cụ thị trường mở, và lãi suất thị trường
trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ hội với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với
người thiếu hụt vốn tăng lên (giảm xuống), làm giảm (tăng) nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của
xã hội, và do đó tác động vào cung cầu vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền
cung ứng.
2. Các loại nghiệp vụ thị trường mở
a/ Giao dịch các giấy tờ có giá
Giao dịch mua bán hẳn: Là việc mà NHTW mua bán chứng khoán với người giao
dịch (mua bán một lần) và chuyển hẳn quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ cho người giao dịch
và ngược lại.
Nghiệp vụ này được áp dụng khi NHTW cần can thiệp vào cung cầu của thị trường.
Mỗi lần NHTW mua, nó làm giá chứng khoán lên cơn sốt và lãi suất hạ rất nhanh. Ngược
lại, mỗi lần NHTW bán ra, giá chứng khoán lại tụt dốc, lãi suất lại vọt lên.
Giao dịch mua bán hẳn thường diễn ra dài hạn.
Giao dịch mua bán có kỳ hạn: Là việc thực hiện mua bán các giấy tờ có giá theo kỳ
hạn. Khi đó NHTW phải ký hai hợp đồng: Hợp đồng mua và hợp đồng bán có kỳ hạn hoặc
hợp đồng bán và hợp đồng mua có kỳ hạn.
Nếu mua bán theo thoả thuận RPs (hoặc theo hợp đồng mua lại): NHTW ký một hợp
đồng mua chứng khoán với người giao dịch và người giao dịch sẽ đồng ý mua lạ chứng
khoán đó vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là những hợp đồng mua bán có thời
hạn rất ngắn. Do đó lượng tiền xuất ra hầu như không ảnh hưởng lớn đến lượng tiền cung
ứng. Có thể nói, một cách gián tiếp hoạt động này làm cho chu chuyển hàng hoá trên thị
trường tài chính tiền tệ trở nên linh hoạt và thuận lợi hơn.
Nếu mua bán theo thoả thuận chuyển dịch tương đương hoặc mua bán lại dự trữ (còn
gọi là theo hợp đồng mua lại đảo ngược): NHTW bán chứng khoán cho người giao dịch và
người giao dịch đồng ý bán lại chứng khoán cho NHTW vào thời điểm xác định trong tương
lai. Nói cách khác, đây là một hợp đồng vay tiền. Các ngân hàng trung gian hoặc công ty
kinh doanh chứng khoán cho NHTW vay ngắn hạn chính dự trữ của họ tại tài khoản ở
NHTW. Điều này sẽ tác động đến dự trữ của họ và do đó làm tăng, giảm khối lượng tín
dụng cấp phát vào nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
b/ Giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này, khi tham gia giao dịch, NHTW đồng thời ký hai hợp đồng:
- Ký một hợp đồng mua hoặc bán ngoại tệ với tỷ giá giao ngay.
- Ký một hợp đồng bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá có kỳ hạn.
Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + điểm Swap
c/ Giao dịch hoán đổi các chứng khoán khi đến hạn
Loại hình này chủ yếu áp dụng ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Người nắm giữ
các chứng khoán, khi đến hạn thì có thể thực hiện nghiệp vụ chuyển đổi chứng khoán cũ
thành chứng khoán mới trên thị trường mở. Khi chuyển đổi, mệnh giá chứng khoán có thể
lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn chứng khoán mới.
Nếu giá chứng khoán cũ nhỏ hơn chứng khoán mới thì tức là NHTW thực hiện tăng
lượng tiền cung ứng. Ngược lại nếu giá chứng khoán cũ lớn hơn chứng khoán mới thì tức là
NHTW muốn hấp thụ khả năng thanh toán.
Ngoài các loại hình nghiệp vụ trên, NHTW còn có thể thực hiện một số nghiệp vụ
khác như: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTW hoặc huy động tiền gửi với lãi suất cố định.
3. Phương thức giao dịch trên thị trường mở
a/ Giao dịch song phương: NHTW giao dịch trực tiếp với người mua bán thực hiện mua bán
hẳn chứng từ có giá.
b/ Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng khoán, qua các đại lý
chứng khoán mà NHTW tiếp cận với người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán.
c/ Giao dịch qua đấu thầu: Có hai loại đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.
Đấu thầu khối lượng: Theo phương thức này, NHTW sẽ đưa ra khối lượng, lãi suất,
loại giấy tờ có giá và thời hạn của nó. Người giao dịch sẽ thực hiện đặt thầu về khối lượng
với mức lãi suất mà NHTW đã công bố.
Trường hợp khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW can thiệp
thì không cần phân bổ thầu. Ngược lại, nếu khối lượng đặt thầu lớn hơn tổng khối lượng mà
NHTW can thiệp thì phải tiến hành phân bổ thầu.
Tỉ lệ phân bổ thầu là tỉ lệ giữa tổng khối lượng mà NHTW can thiệp với tổng khối
lượng đặt thầu của các ngân hàng tham gia. Sau đó tính khối lượng trúng thầu của từng ngân
hàng thành viên bằng tích của tỷ lệ phân bổ thầu với số lượng đặt thầu của từng ngân hàng.
Đấu thầu lãi suất: Theo phương thức này, các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi suất đặt thầu
và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. NHTW sẽ quan tâm đến lãi suất đặt thầu
và sẽ lấy từ lãi suất cao đến lãi suất thấp đến khi nào đạt được lượng tiền mà NHTW cần
cung ứng vào lưu thông.
Có hai phương thức đấu thầu lãi suất: đầu thầu lãi suất thống nhất (kiểu Hà Lan) là tất
cả khối lượng trúng thầu tính thống nhất theo mức lãi suất trúng thầu và đấu thầu lãi suất
riêng lẻ (kiểu Mỹ) là từng mức khối lượng trúng thầu sẽ tương ứng với mức lãi suất dự thầu.
Nguyên tắc xét thầu là: Các đơn vị dự thầu được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu
giảm dần trong trường hợp NHTW mua chứng khoán (cung ứng tiền) và lãi suất dự thầu
tăng dần trong trường hợp NHTW bán chứng khoán (hấp thụ khả năng thanh toán).
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất nếu NHTW mua các giấy tờ có giá
hoặc lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTW bán các giấy tờ có giá mà tại mức lãi suất đó,
NHTW đạt được khối lượng tiền cần can thiệp.
Trường hợp khối lượng đặt mua lớn hơn mức cần can thiệp thì phải tiến hành phân bổ
thầu. Sau khi xác định được lượng trúng thầu của từng ngân hàng thì sẽ xác định giá mua và
bán giữa NHTW và đối tác theo công thức:
100365
1
x
LxT
Gt
Gd
Trong đó: Gd là giá bán các chứng từ có giá
Gt là giá trị của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán.
T là thời hạn còn lại của giấy tờ có giá
L là lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (tính theo %/năm)
Nếu thực hiện mua bán có kỳ hạn thì giá mua bán lại giữa NHTW với các tổ chức tín
dụng được xác định theo công thức:
Trong đó: Gv là giá mua lại
Tb là thời hạn mua bán
4. Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu điểm. Với các nước phát triển đã từng
sử dụng các công cụ để điều chỉnh cơ cấu tiền tệ và tạo ra những biến động trong cung ứng
tiền thì nghiệp vụ thị trường mở luôn là công cụ tuyệt vời nhất, có vai trò quyết định quan
trọng nhất trong số các công cụ được sử dụng.
Trước hết, nghiệp vụ thị trường mở tự nó có thể kiểm soát được toàn bộ khối lượng mà
nó thực hiện. Trong khi đó, hành vi kiểm soát này không thể có được với các công cụ khác.
Chẳng hạn công cụ dự trữ bắt buộc, tự nó không phản ánh được toàn bộ dự trữ thực của hệ
thống ngân hàng và do đó, khó kiểm soát được lượng tiền cung ứng. Hay như với nghiệp vụ
chiết khấu, NHTW có thể sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết hoặc khuyến khích các
NHTM vay vốn nhưng trên thực tế, nó không thể trực tiếp kiểm soát được khối lượng chiết
khấu.
Thứ hai: khi sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể chủ động can
thiệp về khối lượng nhiều hay ít tuỳ ý, thời gian tuỳ thuộc vào thời gian mà NHTW muốn
điều chỉnh lượng tiền cung ứng. NHTW có thể quyết định mua bán chủng loại giấy tờ có giá
nào nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đồng thời cũng có thể điều chỉnh cơ số
)
100365
1(
x
LxTb
GdxGv
tiền tệ tuỳ theo mức độ mong muốn thông qua việc mua bán một khối lượng giấy tờ có giá
lớn hay nhỏ.
Thứ ba: công cụ nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao, bất kỳ lúc nào sự can
thiệp của NHTW đều tác động đến lượng tiền Trung ương sau đó ảnh hưởng đến lãi suất.
Với công cụ này, khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ, NHTW có thể lập
tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy việc cung ứng tiền tệ tăng quá
nhanh do nó mua trên thị trường mở quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng
cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.
Thứ tư: nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ đầy quyền lực. Một khi, NHTW quyết
định mua hoặc bán thì nó tìm mọi cách định giá và đặt ra các điều kiện để thu hút các
NHTM tham gia tích cực đáp ứng được yêu cầu của NHTW. Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường
mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.
Với những lợi thế hơn hẳn các công cụ khác nên sau khi ra đời, nghiệp vụ thị trường
mở đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước phát triển. Tuy