Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, vừa là quá
trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển
để bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhằm đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì
vai trò của GD và khoa học công nghệ càng có tính quyết định. GD phải đi trước
một bước, nâng cao dân trí, ĐT nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm thực hiện thành
công các mục tiêu của chiến lược phát triển KT-XH.
Ở nước ta, quá trình CNH-HĐH được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XH chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động mở
rộng, nhu cầu học tập tăng lên, mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị,
ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề, động cơ học tập, các mối quan hệ trong
nhà trường và ngoài XH.
Tình hình trên đòi hỏi ngành GD-ĐT phải ĐT ra những lớp người lao động
“Có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được ĐT, bồi dưỡng
và phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện
đại” [21, tr. 9]. Song song, nguồn nhân lực này phải là một đội ngũ lao động có
năng lực thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của cả nước cũng như ở từng
địa phương
141 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------------
Nhan Ngọc Hà
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------------
Nhan Ngọc Hà
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN TUẤN LỘ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN
--- *** ---
Tác giả xin cam đoan tất cả công trình nghiên cứu của bản thân dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. TRẦN TUẤN LỘ.
Tất cả các thông tin, dữ liệu và kết quả nghiên cứu được tác giả thu thập và
trình bày trong đề tài là hoàn toàn trung thực, thực tiễn và chưa được công bố bởi
bất cứ ai trong một công trình nào khác.
Tác giả!
LỜI CẢM ƠN
--- *** ---
Trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ và ủng hộ của nhiều tập thể và cá nhân.
Tôi xin trân trọng cám ơn Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,
Phòng Khoa học công nghệ & Sau đại học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình tổ chức giảng dạy, tạo điều kiện học tập - nghiên cứu và
chấp nhận cho tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cám ơn PGS. TS. TRẦN TUẤN LỘ - Trưởng khoa Tâm lý
học Trường Đại học Văn Hiến thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn tôi
thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn tất cả Quý Thầy, Cô đã giảng dạy và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố Cần Thơ, Sở
Nội vụ thành phố Cần Thơ, Ủy ban nhân dân quận Thốt Nốt, các trường THPT của
quận Thốt Nốt, trường THPT Thốt Nốt đã chấp thuận và tạo điều kiện cho tôi được
tham gia và hoàn thành tốt khóa học này.
Tôi xin trân trọng cám ơn lãnh đạo nhà trường cùng toàn thể giáo viên các
trường THPT của quận Thốt Nốt, đã cung cấp cho tôi những thông tin, tài liệu và
những ý kiến đóng góp quý báu cho đề tài; các thầy - cô đồng nghiệp cùng khóa đã
cung cấp những thông tin, tài liệu và những đóng góp quý báu cho luận văn; các
cha mẹ học sinh và học sinh đã đóng góp cho tôi những ý kiến chân tình nhằm đem
lại ý nghĩa thực tiễn và khoa học cho luận văn.
Song, do trình độ và năng lực còn hạn chế nên luận văn khó tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến, phê bình của
quý Thầy – Cô, Hội đồng chấm, các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn tất cả!
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, vừa là quá
trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển
để bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhằm đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì
vai trò của GD và khoa học công nghệ càng có tính quyết định. GD phải đi trước
một bước, nâng cao dân trí, ĐT nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm thực hiện thành
công các mục tiêu của chiến lược phát triển KT-XH.
Ở nước ta, quá trình CNH-HĐH được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XH chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động mở
rộng, nhu cầu học tập tăng lên, mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị,
ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề, động cơ học tập, các mối quan hệ trong
nhà trường và ngoài XH.
Tình hình trên đòi hỏi ngành GD-ĐT phải ĐT ra những lớp người lao động
“Có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được ĐT, bồi dưỡng
và phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện
đại” [21, tr. 9]. Song song, nguồn nhân lực này phải là một đội ngũ lao động có
năng lực thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của cả nước cũng như ở từng
địa phương.
Một trong những giải pháp phát triển GD-ĐT mà Đại hội X đã đề ra là đổi
mới toàn diện GD-ĐT, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Để việc thực
hiện mục tiêu đó Ðại hội còn xác định sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác HN và
DN cho HSPT nhằm tạo điều kiện cho việc phân luồng sau tốt nghiệp THPT, để HS
vào đời tham gia lao động sản xuất hoặc chọn ngành, nghề học tiếp sau tốt nghiệp.
Trước thế giới nghề nghiệp đa dạng, phong phú, HS rất lúng túng trong việc
lựa chọn ngành nghề phù hợp. Phần lớn các em chọn nghề theo nhu cầu cá nhân, gia
đình, bạn bè hoặc theo thị hiếu chưa đáp ứng đúng năng lực, sở trường của bản
thân hay nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương cũng như của đất nước. Nguyên
nhân của tình trạng này là do bản thân các em chưa được trang bị đầy đủ những
kiến thức về thế giới nghề nghiệp, thiếu hiểu biết về tiêu chuẩn hay những yêu cầu
của ngành nghề mình chọn và thường chưa đánh giá đúng năng lực của bản thân.
Điều này cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp QLGD đối với công tác GDHN
trong nhà trường, đặc biệt là những nhà QL trực tiếp chỉ đạo thực hiện công tác
GDHN trong trường phổ thông nói chung, ở các trường THPT của quận Thốt Nốt
nói riêng. Nói cách khác, công tác QLHĐGDHN ở các trường THPT quận Thốt Nốt
chưa thực sự được quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao.
Những vấn đề nêu trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải
pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường
THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng QLHĐGDHN của HT các
trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay, để từ đó đề ra các giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác QLHĐGDHN của HT ở
các trường này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động QL GDHN của HT các trường THPT tại quận Thốt Nốt, thành
phố Cần Thơ hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận Thốt
Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT ở quận Thốt
Nốt hiện nay còn yếu kém. Do đó, chất lượng và hiệu quả GDHN cho HS chưa cao,
phần lớn các em chưa định hướng đúng trong việc lựa chọn ngành, nghề phù hợp
với năng lực bản thân. Nếu có những giải pháp đúng đắn và khả thi thì có thể nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác QLHĐGDHN của HT ở các trường THPT
trong quận Thốt Nốt.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về công tác QL của HT các trường THPT nói chung,
công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT nói riêng.
5.2. Tìm hiểu thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận
Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay. Phân tích nguyên nhân của thực trạng.
5.3. Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác QLHĐGDHN của HT các
trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
6.1.1. Quan điểm hệ thống cấu trúc
Mỗi trường THPT trong quận Thốt Nốt có những nét hoạt động đặc
trưng riêng về GDHN tùy thuộc vào hoạt động của bộ môn và ứng với điều kiện cụ
thể của từng trường. Vì vậy, việc đánh giá công tác QLHĐGDHN của quận phải
được xem xét trong mối quan hệ các nhiệm vụ GD chung của các trường THPT
trong quận. Ngoài ra, cũng phải xem xét mối tương quan trong công tác
QLHĐGDHN giữa các trường THPT trong quận, đồng thời cũng xem xét trong mối
tương quan với các hoạt động GD khác trong nhà trường để tìm ra những giải pháp
nhằm đẩy mạnh công tác QLHĐGDHN ở các trường này.
6.1.2. Quan điểm lịch sử và thực tiễn
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng QLHĐGDHN của HT các trường
THPT trong quận trong những điều kiện cụ thể của từng trường, trong tình hình
phát triển KT-XH hiện tại của quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, để đưa ra những
giải pháp QL đảm bảo tính khoa học, phù hợp với thực tiễn GDHN của địa phương,
góp phần đẩy mạnh nhiệm vụ GDHN của cả nước, đồng thời đảm bảo việc thực
hiện mục tiêu GD THPT.
6.1.3. Quan điểm toàn diện
Các giải pháp đưa ra được xét trên cơ sở tổng hợp từ nhiều khía cạnh
của vấn đề và mang tính toàn diện, trong mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau giữa
GD với tình hình kinh tế, văn hóa và XH hiện tại của vùng, để nâng cao hiệu quả
công tác QLHĐGDHN của các trường THPT trong quận Thốt Nốt, thành phố Cần
Thơ.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn kiện, văn bản, các Nghị
quyết, các tài liệu, sách, báo, thông tin trên mạng, tham khảo các vấn đề có liên
quan để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát công tác QL của HT, các
HĐGDHN của người GV, việc HN của cha mẹ đối với con, việc định hướng và lựa
chọn các ngành nghề của HS THPT cũng như hiệu quả GDHN của 3 trường THPT
trong quận Thốt Nốt.
- Phương pháp điều tra: Xây dựng 4 phiếu trưng cầu ý kiến với: phiếu
số 1 thăm dò ý kiến ngẩu nhiên 100 HS của khối 12/mỗi trường; phiếu số 2 thăm dò
ý kiến của 100 cha mẹ của những HS này/mỗi trường ; phiếu số 3 thăm dò ý kiến
đối với toàn thể GV của 3 trường (190 GV); phiếu số 4 thăm dò ý kiến của tất cả 49
CBQL (3 HT, 6 Phó HT và các tổ trưởng chuyên môn và các bộ phận khác) ở 3
trường THPT trong quận Thốt Nốt. Việc xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến chủ yếu
dựa trên cơ sở lý luận, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn CBQL (HT, Phó HT) của 3
trường THPT trong quận Thốt Nốt về những vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Tác giả đã xin ý kiến của các
chuyên gia: Thạc sĩ Trần Đình Lý – Giám đốc Trung tâm quan hệ doanh nghiệp và
QL sinh viên trường ĐH Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh; Giảng viên tư vấn HN
Nguyễn Đăng Lập của khoa tâm lý học trường ĐH Văn Hiến thành phố Hồ Chí
Minh; Giám đốc Trung tâm kỹ thuật tổng hợp – HN thành phố Cần Thơ; Giám đốc
Trung tâm GD thường xuyên quận Thốt Nốt nhằm đúc kết thêm cơ sở khoa học
và những kinh nghiệm thực tiễn về công tác QLHĐGDHN cho HSPT, đồng thời
mang lại ý nghĩa khoa học cho các giải pháp tăng cường công tác QLHĐGDHN của
đề tài.
6.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các phép toán thống kê để xử lý số liệu thu thập được từ các
điều tra bằng bảng hỏi.
7. Giới hạn nghiên cứu
Do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài được nghiên cứu chủ yếu về
thực trạng công tác QLHĐGDHN cho HS ở 3 trường THPT thuộc quận Thốt Nốt,
thành phố Cần Thơ hiện nay, trên cơ sở đó chỉ đề xuất một số giải pháp chung nhất
để tăng cường một bước công tác QLHĐGDHN của HT ở 3 trường này.
Đối với hai đối tượng HS và CMHS thì đề tài chỉ nghiên cứu ngẩu nhiên ở
100 HS khối 12 và 100 vị cha mẹ của những HS này ứng với mỗi trường THPT
trong quận Thốt Nốt.
Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG THPT
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong
nhà trường THPT
Ở nước ta, Đảng ta đã có nhiều văn kiện, Nghị quyết về GD nhấn mạnh ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc GDHN, phân luồng HS các cấp nhằm góp phần GD
toàn diện, chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước.
Những quan điểm của Đảng về GDHN đã được cụ thể hóa bằng những Nghị quyết,
Luật của Quốc hội, Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của Bộ
GD-ĐT. Cụ thể như:
Ở Nghị quyết Trung Ương 2 khóa VIII trong văn kiện của Đảng, đã đề ra
nhiệm vụ cho ngành GD cần mở rộng và nâng cao chất lượng GD kỹ thuật tổng hợp
– HN; ở Nghị quyết Trung Ương 6 khóa IX tiếp tục khẳng định lại những mục tiêu
và yêu cầu về GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng cũng có thông qua văn kiện xác định đổi mới toàn diện GD-ĐT, trong
đó yêu cầu dạy học phân ban và tự chọn ở cấp THPT trên cơ sở làm tốt công tác HN
và phân luồng HS từ THCS.
Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Thủ tướng Chính phủ về công tác HN
cho HSPT và sử dụng HS các cấp THCS và THPT ra trường cũng có quy định rõ về
mục đích, nhiệm vụ của công tác HN, biện pháp thực hiện và giao nhiệm vụ cho các
Bộ, ngành, địa phương phối hợp với ngành GD thực hiện. Thông tư 31/TT ngày
17/8/1981 của Bộ GD-ĐT có hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP với những
nội dung về vị trí, nhiệm vụ của công tác HN; thực hiện công tác HN cho HSPT có
4 con đường Trong các quan điểm chỉ đạo của chiến lược phát triển GD 2001 –
2010 do Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001,
có nêu rõ: “Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, GD kết hợp với lao động sản
xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, GD nhà trường kết hợp với GD gia đình và GD
XH”. Trong mục tiêu phát triển GD đến 2010 đối với THCS và THPT cũng như
trong Luật GD 2005, ở Điều 27 có nêu “Mục tiêu GD phổ thông là chuẩn bị cho HS
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”, “GD THPT nhằm giúp cho HS có những hiểu biết thông thường về kỹ
thuật và HN, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển,
tiếp tục học lên ĐH, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào lao động cuộc
sống”; ở Điều 28 cũng có ghi “ Nội dung GD phổ thông đảm bảo tính phổ thông,
cơ bản, toàn diện, HN và có hệ thống”. Ở Nghị định quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật GD cũng đề cập đến nội dung HN và phân luồng
HS trong GD.
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo việc xây dựng chương trình GD THCS,
THPT theo mục tiêu quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 của Luật GD có chú
trọng việc đổi mới nội dung, phương pháp GD, cụ thể hóa chuẩn kiến thức, kỹ năng
GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Đối với cấp THCS, các nội dung HN được lồng ghép
vào các môn học, đặc biệt là môn công nghệ; đối với cấp THPT các nội dung HN
được bố trí thành môn học cụ thể. Theo Chỉ thị 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày
23/7/2003 cũng đã đề cập về việc tăng cường GDHN cho HS. Quyết định số
16/2006/QĐ–BGD&ĐT ngày 5/6/2006 cũng đề cập về việc ban hành chương trình
GD phổ thông và trong chương trình GD phổ thông cũng có chương trình chuẩn
“HĐGDHN”.
Bên cạnh đó là những nghiên cứu của nhiều Nhà GD và các chuyên gia phần
lớn tập trung nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, hứng thú nghề nghiệp, định
hướng và tư vấn nghề nghiệp cho HS việc ĐT chuyên gia tư vấn HN hay một số
vấn đề chung nhất về công tác HN. Chẳng hạn như đề tài: “Nghiên cứu một số đặc
điểm tâm lý HSPT trung học tại thành phố Hồ Chí Minh và bước đầu xây dựng bộ
trắc nghiệm HN và chọn nghề” của Quang Dương ở Viện Nghiên cứu GD-ĐT phía
Nam, thành phố Hồ Chí Minh 1998. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tâm
lý chọn nghề của HS lúc này chủ yếu cũng có hướng chọn nghề nhằm chạy đua vào
các trường ĐH và đa phần chọn nghề theo cảm tính.
Vấn đề QLHĐGDHN cho HSPT trong những năm qua cũng đang là mối quan
tâm nghiên cứu của rất nhiều Nhà khoa học, Nhà GD và các Nhà QLGD như:
- GD lao động, kỹ thuật tổng hợp, HN trường phổ thông (1985) của Nguyễn
Trọng Bảo.
- Đổi mới công tác HN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước (1996) của
Phạm Tất Dong.
- Đề tài “QL công tác HN cho HSPT bậc trung học tại các Trung tâm GD
thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Thực trạng và giải pháp”, Luận văn
Thạc sĩ khoa học QL, Trường ĐH Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh - Huỳnh Thị
Tam Thanh (2003). Ở đề tài này chỉ tập trung làm rõ thực trạng QL công tác HN
cho HS tại các trung tâm GD thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đưa
ra giải pháp nhằm tăng cường việc QL công tác này. Đề tài còn khảo sát về thực
trạng phân luồng HS sau bậc trung học, sự bất cập về tỉ lệ lao động kỹ thuật trong
tổng số lao động, sự không phù hợp về trình độ trong cơ cấu lao động, việc tổ chức
và QL công tác HN chưa đồng bộ của thành phố Đà Nẵng Tuy vậy, cơ sở lý luận
đề tài chưa đáp ứng cho việc giải quyết sâu sát các nội dung của thực trạng, như
phần lý luận chưa nêu rõ tính chất HN trong nhà trường phổ thông đối với từng cấp
học, chưa chỉ rõ mục đích, phương hướng và nhiệm vụ GDHN trong trường THPT
cho từng thành viên của nhà trường.
- Đề tài “Tìm hiểu thực trạng công tác QL hoạt động HN cho HS THPT tại
thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số biện pháp”, Luận văn Thạc sĩ khoa học
QL, Trường ĐH Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Hữu Thiện (2004). Đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng về công tác QL hoạt động HN cho HS THPT
tại thành phố Hồ Chí Minh chưa đạt hiệu quả cao trên cơ sở phân tích các thực trạng
về sự thiếu thông tin, sự thiếu hiểu biết của HS về các ngành, nghề trong XH dẫn
đến việc chọn nghề nghiệp tương lai của các em HS không phù hợp, các HTGDHN
trong nhà trường THPT còn nhiều hạn chế. Bên cạnh, đề tài chưa đề cập đến sự lãnh
đạo phối hợp GD của nhà trường – gia đình – XH trong công tác GDHN cho HS. Vì
công tác GDHN trong nhà trường THPT là một bộ phận của công tác HN của toàn
XH. Gia đình lại là cái nôi đầu đời có ảnh hưởng lớn tới sự chọn lựa nghề nghiệp
tương lai của HS. Ở đây đề tài chưa đề cập đến nhiệm vụ của CMHS trong việc
GDHN và chưa có sự phối hợp GD của nhà trường với gia đình để HN cho các em.
Nhìn chung, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ
về công tác QLHĐGDHN nói chung và rất ít công trình nghiên cứu về công tác
QLHĐGDHN của HT các trường THPT nói riêng. Hiện tại, ở Cần Thơ chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập đến thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các
trường THPT trong quận Thốt Nốt một cách hoàn chỉnh.
1.2. Một số khái niệm và lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
trong trường THPT
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Có nhiều quan niệm tiếp cận khác nhau:
Theo Từ điển Tiếng Việt căn bản (1998) của Nhà xuất bản GD, QL là tổ
chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan. [ 44, tr. 583]
Theo F.W.Taylor: “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần
làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”.
Theo Kozlova O. V. và Kuznelsov I. N: “QL là sự tác động có mục đích
đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá
trình sản xuất”.
Theo Glushkov A. A. và Eitingon V. N: “QL là một hoạt động đa diện
phức tạp, bảo đảm sự phối hợp có chủ định, sự ăn nhịp của lao động XH”.
Cũng vậy, Tereebnenko. V. I. cho “QL tập hợp các biện pháp phối hợp
nhằm đạt mục đích xác định”.
QL là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. [45, tr. 29]
QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số
tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường
nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định làm cho nó phát triển đến
mục đích đã định. [25, tr. 28]
QL là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm chỉ
huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình XH và hành vi của cá nhân hướng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan. [29, tr. 40]
Theo các khái niệm trên đây có thể hiểu khái niệm QL như sau:
QL là một hoạt động đa diện phức tạp, là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích, hợp quy luật của chủ thể QL đến đối tượng bị QL cùng nhằm thực hiện
mục tiêu chung.
1.2.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Khái niệm QLGD cũng giống như khái niệm QL, được tiếp cận theo nhiều
quan niệm khác nhau:
Theo P.V. Khuđôminxky: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có
ý thức và có mục đích của chủ thể QL, ở các cấp độ khác nhau đến tất cả các khâu
của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc GD cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ,
đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ. [37, tr. 28]
QLGD là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến tập thể GV, công nhân viên,
tập thể HS, CMHS và các lực lượng XH trong và