Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt.
Nếu xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản
xuất-lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất
ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, vừa là công
cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một chính sách
lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong
một lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo
từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng
vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục
5
vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt
động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế
tự cung tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có
sự điều tiết quản lí của Nhà nước, trong quá trình hoà nhập cùng
sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việcxem xét vấn đề lãi suất
là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : “Thực trạng
về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90
trở lại đây” với bố cục chính như sau :
Phần I: Lý luận chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt
Nam từ những năm 90 trở lại đây.
Phần III: Các giải pháp trong việc điều hành chính sách lãi
suất ở Việt Nam .
44 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận Văn
" Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở
Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây"
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu ...................................................................................... 1
Phần I Tìm hiểu chung về lãi suất................................................... 3
I. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất ....................
1. Khái niệm.................................................................................... 3
2. Vai trò của lãi suất ...................................................................... 3
3. Nguyên tắc hình thành lãi suất..................................................... 4
II.Chính sách lãi suất ...................................................................... 5
Phần II. Thực trạng về chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những
năm 90 Cho đến nay .......................................................................
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua..........
1.Trước tháng 3/1989 ,thời kỳ lãi suất âm ....................................... 6
3
2.Từ tháng 3/1989 ,thời kỳ chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất
dương .............................................................................................. 6
3.Từ 1/10/1993 ,thời kỳ vừa áp dụng lãi suất trần vừa áp dụng lãi
suất thoả thuận ................................................................................ 7
4.Từ 1/1/1996 ,thời kỳ áp dụng lãi suất trần .................................... 7
5.Từ 7/2000 –Một bước tiến mới trong việc hình thành lãi suất cơ
bản................................................................................................... 9
II Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi suất
từ những năm 90 Cho đến nay......................................................... 9
Phần III: Một số các giải pháp trong điều hành chính sách lãi suất
ở Việt Nam ...................................................................................... 13
4
Kết luận 16
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt.
Nếu xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản
xuất-lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất
ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, vừa là công
cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một chính sách
lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong
một lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo
từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng
vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục
5
vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt
động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế
tự cung tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có
sự điều tiết quản lí của Nhà nước, trong quá trình hoà nhập cùng
sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem xét vấn đề lãi suất
là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : “Thực trạng
về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90
trở lại đây” với bố cục chính như sau :
Phần I: Lý luận chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt
Nam từ những năm 90 trở lại đây.
Phần III: Các giải pháp trong việc điều hành chính sách lãi
suất ở Việt Nam .
6
........................................................................................................
NỘI DUNG
PHẦN I
TÌM HIỂU CHUNG VỀ LÃI SUẤT
7
I. Khái niệm,vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất .
1. Khái niệm.
Tiền lãi là phần tiền dôi ra bên ngoài số vốn mà người đi vay trả
cho người cho vay.
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính theo năm (hoặc tháng, ngày) giữa
lãi vay và số tiền cho vay.
2.Vai trò :
Lãi suất đóng một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế ,thể
hiện:
-Trong nền kinh tế có những chủ thể thừa vốn hoặc không đưa
vốn vào kinh doanh ,khiến cho số vốn đó nằm im trong túi và trở
thành “vốn chết “.
Ngược lại ,lại có những chủ thể muốn đi vào kinh doanh nhưng
không có vốn ,thiếu vốn .Thật là có lợi nếu như hai chủ thể đó trao
đổi cho nhau .Vậy cơ sở nào để có thể tiến hành sự trao đổi ?Lãi
suất chính là điểm gặp của những người tiết kiệm (thừa vốn ,có
vốn nhàn rỗi ) với những nhà đầu tư (thiếu vốn ,cần vốn ).Lãi suất
làm dung hoà lợi ích của các bên .Người tiết kiệm ,nếu đem tiền
8
của mình cho người khác vay,họ sẽ nhận được một khoản lãi nhất
định được tính theo lãi suất ngân hàng hoặc lãi suất do hai bên tự
thoả thuận .Người đầu tư đem khoản tiền vay được đó đi vào kinh
doanh ,biến số tiền đó thành vốn .Khi sản xuất kinh doanh phát
triển ,làm ăn có lãi ,ngoài việc họ trả được số tiền vay ,họ còn thu
được thêm lợi nhuận .Như vậy họ đã biết cách dùng tiền của người
khác để tạo ra tiền cho mình .
-Mặt khác ,vì là lãi suất đem lại lợi ích cho nhà tiết kiệm ,nên với
mức lãi suất hợp lý sẽ khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh
tế.Theo một mô thức logic ,tiết kiệm tăng sẽ khiến cho đầu tư cũng
tăng và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển .
-Một vai trò không thể thiếu là :lãi suất là một công cụ quan
trọng để nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế .Thông qua lãi
suất ,nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài
khoá của mình .Đối với chính sách tiền tệ ,khi lãi suất tăng sẽ làm
cho cung tiền giảm và ngược lại .
Đối với chính sách tài khoá ,lãi suất cao sẽ tác động gián tiếp tới
cung cầu của thị trường hàng hóa.Lãi suất tiền gửi tăng sẽ kéo theo
9
sự tăng lãi suất cho vay.Sự tăng lãi suất sẽ đẩy giá bán của hàng
hoá lên.Giả sử ban đầu nền kinh tế đang cân bằng (cung hàng hoá
bằng cầu hàng hoá ),khi lãi suất tăng dẫn tới giá cả hàng hoá tăng
sẽ làm cho cầu về hàng hoá đó giảm,nền kinh tế trở nên dư cung
hàng hoá ,các nhà sản xuất phải thu hẹp sản lượng .Ngược lại ,lãi
suất thấp sẽ dẫn tới giá bán hàng hoá giảm ,kích thích tiêu dùng ,
làm cho cầu về hàng hoá đó tăng .Cầu tăng ,trong khi cung không
đổi sẽ dẫn tới tình trạng dư cầu hàng hoá .Để đáp ứng nhu cầu về
hàng hoá của xã hội ,các nhà sản xuất có thể đẩy được giá bán lên
hoặc tiếp tục mở rộng sản xuất ,tạo ra hàng hoá ngày càng đa dạng
cho thị trường
-Ngoài ra ,lãi suất còn có tác động rất lớn tới chế độ tỉ giá .Nếu lãi
suất trên thế giới lớn hơn lãi suất trong nước thì nguồn vốn của tư
bản nước ngoài đổ vào trong nước ,làm cho cung ngoại tệ tăng lên
,tỉ giá giảm .Ngược lại ,nếu lãi suất thế giới nhỏ hơn lãi suất trong
nước sẽ dẫn tới hiện tượng nguồn vốn trong nước chảy ra nước
ngoài ,làm cho cung ngoại tệ giảm ,tỉ giá tăng.
10
Như vậy ,lãi suất là một công cụ không thể thiếu được trong bất
kỳ nền kinh tế của nước nào .
3.Nguyên tắc hình thành lãi suất
- Nguyên tắc bảo toàn giá trị đồng tiền: đòi hỏi lãi suất ít nhất
phải bằng tỷ lệ lạm phát.
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người gửi tiền
Lãi suất tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ
nhất định
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người vay vốn ngân
hàng
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay<Mức sinh lợi
bình quân
II .Chính sách lãi suất
Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc
gia. Vì thế, trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính
sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và
11
kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở nước
ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ, tạo
sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng,
xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính
sách lãi suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng,
tránh tình trạng biến tướng chi phí của các TCTD vào giá thành
sản xuất của xã hội. ngoài ra, đối với các TCTD, chính sách lãi
suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và
phát triển hoạt động kinh doanh.
12
PHẦN II.
THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM TỪ
NHỮNG NĂM 90 CHO ĐẾN NAY
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
1.Trước tháng 3- 1989 :
13
Nghị định 53/ HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh về
ngân hàng (1/10/1990) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp
,từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường
.Tuy nhiên do lạm phát cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện
được lãi suất dương Cho nên thời kỳ này là thời kỳ điều hành theo
cơ chế lãi suất âm. Điều này có nghĩa là:
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức
lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông,
giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo
cho doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không
đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ
bình thường theo cơ chế thị trường.
2.Từ tháng 3-1989:
14
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp ,có điều
kiện thực hiện chính sách lãi suất dương dương tức là lãi suất Cho
vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn
lạm phát .Tháng 10/1992 ,NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi
suất dương và đến tháng 3/1993 NHNN đã chủ động sử dụng công
cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút
tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua
lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao
trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % /
năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
- Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn
vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát.
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa
người gửi tiền, người vay vốn và TCTD.
- Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân
hàng sang kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp,
còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay.
15
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất: lãi suất
Cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp
dụng lãi suất thoả thuận.
-Lãi suất trần: Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh
tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng.
-Lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ
vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với
lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy
động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1 %/ tháng
và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ
các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ
biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể
16
hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay
với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
Thời kỳ này , các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất
Cho vay và lãi suất huy động cao ,phổ biến là từ 0,7% -1% tháng
,Cho nên ,hầu hết , các NHTM đều có mức lợi nhuận cao ,trong
khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính .Từ thực trạng
này ,Quốc hội khoá IX ,kỳ họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua
nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng ,đồng
thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất Cho
vay .Đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi
suất huy động 0,35%/tháng .Đó là lý do để chuyển sang một giai
đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất .
4.Từ 1/1/996 Chuyển từ lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất.
Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0,
35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi
suất. Vì thế từ 1/ 1/ 96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối
đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo lãi suất
17
cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định
trước đó .
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn
khác nhau, chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định
trần lãi suất có phân biệt như sau:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
- Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
- Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng đối với các thành viên.
Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với
nhau khá xa nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cáh này đã rút
ngắn lại và chỉ còn chênh lệch ít .
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là khu vực
nông thôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít
và chi phí hoạt động ngân hàng ở đây rất cao ,nên NHNN qui định
trần lãi suất Cho vay nông thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút
vốn từ thành thị về nông thôn .Nhưng nhiều quan điểm Cho rằng
18
lãi suất Cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới
ưu đãi nông nghiệp ,mới khuyến khích nông nghiệp phát triển .
Do đó , từ 21/1/1998 , Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức
chênh lệch 0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa
mức lãi suất cho vay của thành thị và nông thôn, NHNN quy định
các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần lãi suất và
không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
- Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành
chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất
tái cấp vốn đối với các TCTD ;trong khuôn khổ trần lãi suất
Cho vay,TCTD được phép qui định các mức lãi suất Cho vay và
lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn tín
dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan
trọng vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong nhứng năm
qua .
19
Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên
tục ,phù hợp với chỉ số lạm phát , quan hệ cung cầu vốn tín
dụng tại từng thời điểm và góp phần thực hiện giải pháp kích
cầu về đầu tư của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất
tín dụng .Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín
dụng nhiều nhất từ trước đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn có xu
hướng giảm sau các lần điều chỉnh , cụ thể như sau :
+ Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ tị
01/1999/CT-NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng
đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh : đối với khách
hàng ở khu vực thành thị từ 1,2 – 1,25%/tháng xuống 1-
1,15%/tháng ;các TCTD khác vẫ thực hiện theo mức trần
1,2%/tháng đối với Cho vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với
Cho vay trung và dài hạn .
+ Ngày 29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu
phát ,tăng trưởng kinh tế chậm lại ,sức mua giảm sút .Thống đốc
NHNN đã có quyết định 184/1999/QĐ -NHNN 1 về việc điều
chỉnh giảm trần lãi suất Cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,2-
20
1,25%/tháng xuống mức 1,15%/tháng áp dụng Cho các TCTD
Cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc
giảm trần lãi suất Cho vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn
từ 1%/tháng và lãi suất tái cấp vốn về Cho vay chỉ định thu mua
tạm trữ xuất khẩu 0,9%/tháng xuống một mức thống nhất là
0,85%/tháng . Như vậy , từ tháng 6/1999 từ chỗ nhiều trần lãi
suất ngắn ,trung ,dài hạn trần lãi suất Cho vay khu vực thành thị
và khu vực nông thôn khác nhau đã thống nhất chung một trần
áp dụng chung Cho các TCTD ,không phân biệt quốc doanh hay
cổ phần .
+ Tháng 9/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị
05/1999/CT –NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng
VND của các NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực
thành thị từ 1,05%/tháng xuống 0,95%/tháng .Đây là bước tiến
trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn Cho các TCTD
trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và Cho vay phù hợp với điêù
kiện về chi phí ,cung cầu trên từng vùng khác nhau và mức độ
21
rủi ro của từng khoản vay ,tạo tiền đề Cho việc áp dụng cơ chế
điều hành chính sách lãi suất của NHNN theo lãi suất cơ bản .
Nhìn chung , việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
+ Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức
lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện
kinh doanh , thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh
doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi
suất.
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng
khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi
suất thoả thuận, vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định.
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ được lợi ích người vay, TCTD
và người gửi tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nước của NHNN về lãi suất
trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền
kinh tế thị trường.
22
5.Từ 7/2000 đến nay :Một bước tiến mới trong việc hình thành
lãi suất cơ bản :
Hiện nay, NHNN đã công bố và Cho áp dụng lãi suất cơ bản
làm cơ sở Cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ
bản tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến sát đến
sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do hoá lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi dưới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo
quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ
quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng,
giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính.
Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức
tín dụng huy động với bất cứ laĩ suất nào, chạy đua về lãi suất tiền
gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ, bảo đảm an toàn hệ thống và
bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, với lãi suất cơ
bản thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan
hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu
vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ
chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô
23
và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh,
ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở
Việt Nam.
II.Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi
suất từ những năm 90 Cho đến nay:
*. Đối với thời kỳ lãi suất âm :
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước năm 1988 ,lãi suất của
Việt Nam không theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do
NHNN áp đặt là một trong những nguyên nhân gây ra và kéo dài
lạm phát phi mã .
*.Đối với thời kỳ lãi suất dương :
Thời kỳ này qui luật lãi suất thực mới được công nhận nhưng
tư tưởng lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường đã dẫn
đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/tháng mặc dù tỷ lệ lạm phát
24
cuối năm 1992 chỉ còn 5%/tháng . Lãi suất cực kỳ cao vẫn còn ảnh
hưởng tâm lý đến ngày nay ,người gửi tiền đòi hỏi lãi suất cao .
*.Đối với thời kỳ vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và
Cho vay cụ thể ,vừa Cho vay theo lãi suất thoả thuận :
Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc
họp Giám đốc đầu năm . Nhưng chủ trương này không được thực
hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bj đẩy cao lên gấp đôi năm 1993
.Trong ba năm chậm hạ lãi suất ,tiền gửi các ngân hàng chỉ sử
dụng hết một nửa .Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất
cao để trả Cho những người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy
VND để gởi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5