Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. 
Nếu xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản 
xuất-lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất 
ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, vừa là công 
cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một chính sách 
lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong 
một lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo 
từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng 
vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục 
5
vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt 
động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả. 
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế 
tự cung tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có 
sự điều tiết quản lí của Nhà nước, trong quá trình hoà nhập cùng 
sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việcxem xét vấn đề lãi suất 
là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : “Thực trạng 
về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 
trở lại đây” với bố cục chính như sau :
Phần I: Lý luận chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt 
Nam từ những năm 90 trở lại đây.
Phần III: Các giải pháp trong việc điều hành chính sách lãi 
suất ở Việt Nam .
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 44 trang
44 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2677 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
 
Luận Văn 
" Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở 
Việt Nam từ những năm 90 trở lại đây" 
 2 
MỤC LỤC 
Lời mở đầu ...................................................................................... 1 
Phần I Tìm hiểu chung về lãi suất................................................... 3 
I. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất .................... 
1. Khái niệm.................................................................................... 3 
2. Vai trò của lãi suất ...................................................................... 3 
3. Nguyên tắc hình thành lãi suất..................................................... 4 
II.Chính sách lãi suất ...................................................................... 5 
Phần II. Thực trạng về chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những 
năm 90 Cho đến nay ....................................................................... 
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.......... 
1.Trước tháng 3/1989 ,thời kỳ lãi suất âm ....................................... 6 
 3 
2.Từ tháng 3/1989 ,thời kỳ chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất 
dương .............................................................................................. 6 
3.Từ 1/10/1993 ,thời kỳ vừa áp dụng lãi suất trần vừa áp dụng lãi 
suất thoả thuận ................................................................................ 7 
4.Từ 1/1/1996 ,thời kỳ áp dụng lãi suất trần .................................... 7 
5.Từ 7/2000 –Một bước tiến mới trong việc hình thành lãi suất cơ 
bản................................................................................................... 9 
II Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi suất 
từ những năm 90 Cho đến nay......................................................... 9 
Phần III: Một số các giải pháp trong điều hành chính sách lãi suất 
ở Việt Nam ...................................................................................... 13 
 4 
Kết luận 16 
LỜI MỞ ĐẦU 
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. 
Nếu xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản 
xuất-lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất 
ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, vừa là công 
cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một chính sách 
lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong 
một lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo 
từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng 
vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục 
 5 
vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt 
động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả. 
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế 
tự cung tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có 
sự điều tiết quản lí của Nhà nước, trong quá trình hoà nhập cùng 
sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem xét vấn đề lãi suất 
là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : “Thực trạng 
về điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam từ những năm 90 
trở lại đây” với bố cục chính như sau : 
 Phần I: Lý luận chung về lãi suất 
Phần II: Thực trạng về điều hành chính sách lãi suất ở Việt 
Nam từ những năm 90 trở lại đây. 
Phần III: Các giải pháp trong việc điều hành chính sách lãi 
suất ở Việt Nam . 
 6 
........................................................................................................ 
NỘI DUNG 
PHẦN I 
TÌM HIỂU CHUNG VỀ LÃI SUẤT 
 7 
I. Khái niệm,vai trò và nguyên tắc hình thành lãi suất . 
1. Khái niệm. 
 Tiền lãi là phần tiền dôi ra bên ngoài số vốn mà người đi vay trả 
cho người cho vay. 
 Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính theo năm (hoặc tháng, ngày) giữa 
lãi vay và số tiền cho vay. 
2.Vai trò : 
 Lãi suất đóng một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế ,thể 
hiện: 
 -Trong nền kinh tế có những chủ thể thừa vốn hoặc không đưa 
vốn vào kinh doanh ,khiến cho số vốn đó nằm im trong túi và trở 
thành “vốn chết “. 
Ngược lại ,lại có những chủ thể muốn đi vào kinh doanh nhưng 
không có vốn ,thiếu vốn .Thật là có lợi nếu như hai chủ thể đó trao 
đổi cho nhau .Vậy cơ sở nào để có thể tiến hành sự trao đổi ?Lãi 
suất chính là điểm gặp của những người tiết kiệm (thừa vốn ,có 
vốn nhàn rỗi ) với những nhà đầu tư (thiếu vốn ,cần vốn ).Lãi suất 
làm dung hoà lợi ích của các bên .Người tiết kiệm ,nếu đem tiền 
 8 
của mình cho người khác vay,họ sẽ nhận được một khoản lãi nhất 
định được tính theo lãi suất ngân hàng hoặc lãi suất do hai bên tự 
thoả thuận .Người đầu tư đem khoản tiền vay được đó đi vào kinh 
doanh ,biến số tiền đó thành vốn .Khi sản xuất kinh doanh phát 
triển ,làm ăn có lãi ,ngoài việc họ trả được số tiền vay ,họ còn thu 
được thêm lợi nhuận .Như vậy họ đã biết cách dùng tiền của người 
khác để tạo ra tiền cho mình . 
 -Mặt khác ,vì là lãi suất đem lại lợi ích cho nhà tiết kiệm ,nên với 
mức lãi suất hợp lý sẽ khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh 
tế.Theo một mô thức logic ,tiết kiệm tăng sẽ khiến cho đầu tư cũng 
tăng và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển . 
 -Một vai trò không thể thiếu là :lãi suất là một công cụ quan 
trọng để nhà nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế .Thông qua lãi 
suất ,nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài 
khoá của mình .Đối với chính sách tiền tệ ,khi lãi suất tăng sẽ làm 
cho cung tiền giảm và ngược lại . 
Đối với chính sách tài khoá ,lãi suất cao sẽ tác động gián tiếp tới 
cung cầu của thị trường hàng hóa.Lãi suất tiền gửi tăng sẽ kéo theo 
 9 
sự tăng lãi suất cho vay.Sự tăng lãi suất sẽ đẩy giá bán của hàng 
hoá lên.Giả sử ban đầu nền kinh tế đang cân bằng (cung hàng hoá 
bằng cầu hàng hoá ),khi lãi suất tăng dẫn tới giá cả hàng hoá tăng 
sẽ làm cho cầu về hàng hoá đó giảm,nền kinh tế trở nên dư cung 
hàng hoá ,các nhà sản xuất phải thu hẹp sản lượng .Ngược lại ,lãi 
suất thấp sẽ dẫn tới giá bán hàng hoá giảm ,kích thích tiêu dùng , 
làm cho cầu về hàng hoá đó tăng .Cầu tăng ,trong khi cung không 
đổi sẽ dẫn tới tình trạng dư cầu hàng hoá .Để đáp ứng nhu cầu về 
hàng hoá của xã hội ,các nhà sản xuất có thể đẩy được giá bán lên 
hoặc tiếp tục mở rộng sản xuất ,tạo ra hàng hoá ngày càng đa dạng 
cho thị trường 
 -Ngoài ra ,lãi suất còn có tác động rất lớn tới chế độ tỉ giá .Nếu lãi 
suất trên thế giới lớn hơn lãi suất trong nước thì nguồn vốn của tư 
bản nước ngoài đổ vào trong nước ,làm cho cung ngoại tệ tăng lên 
,tỉ giá giảm .Ngược lại ,nếu lãi suất thế giới nhỏ hơn lãi suất trong 
nước sẽ dẫn tới hiện tượng nguồn vốn trong nước chảy ra nước 
ngoài ,làm cho cung ngoại tệ giảm ,tỉ giá tăng. 
 10 
 Như vậy ,lãi suất là một công cụ không thể thiếu được trong bất 
kỳ nền kinh tế của nước nào . 
3.Nguyên tắc hình thành lãi suất 
- Nguyên tắc bảo toàn giá trị đồng tiền: đòi hỏi lãi suất ít nhất 
phải bằng tỷ lệ lạm phát. 
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người gửi tiền 
Lãi suất tiền gửi = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ nhất định 
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng 
Lãi suất cho vay = Lsuất tiền gửi + Chi phí + Thuế + Tỷ lệ 
nhất định 
- Nguyên tắc bảo đảm thu nhập hợp lí cho người vay vốn ngân 
hàng 
Tỷ lệ lạm phát < Lsuất tiền gửi < Lsuất cho vay<Mức sinh lợi 
bình quân 
II .Chính sách lãi suất 
 Đây là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc 
gia. Vì thế, trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính 
sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và 
 11 
kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở nước 
ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ, tạo 
sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các tổ chức tín dụng, 
xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực. Thứ ba, chính 
sách lãi suất phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, 
tránh tình trạng biến tướng chi phí của các TCTD vào giá thành 
sản xuất của xã hội. ngoài ra, đối với các TCTD, chính sách lãi 
suất còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và 
phát triển hoạt động kinh doanh. 
 12 
PHẦN II. 
THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM TỪ 
NHỮNG NĂM 90 CHO ĐẾN NAY 
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua. 
1.Trước tháng 3- 1989 : 
 13 
 Nghị định 53/ HĐBT ngày 26/3/1988 và hai pháp lệnh về 
ngân hàng (1/10/1990) tách hệ thống ngân hàng 1 cấp thành 2 cấp 
,từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường 
.Tuy nhiên do lạm phát cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện 
được lãi suất dương Cho nên thời kỳ này là thời kỳ điều hành theo 
cơ chế lãi suất âm. Điều này có nghĩa là: 
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát. 
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức 
lạm phát. 
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực. 
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, 
giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều. 
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo 
cho doanh nghiệp. 
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không 
đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ 
bình thường theo cơ chế thị trường. 
2.Từ tháng 3-1989: 
 14 
Khi lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp ,có điều 
kiện thực hiện chính sách lãi suất dương dương tức là lãi suất Cho 
vay cao hơn lãi suất huy động và lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn 
lạm phát .Tháng 10/1992 ,NHNN bắt đầu từng bước thực hiện lãi 
suất dương và đến tháng 3/1993 NHNN đã chủ động sử dụng công 
cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút 
tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua 
lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao 
trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % / 
năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã: 
- Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn 
vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. 
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa 
người gửi tiền, người vay vốn và TCTD. 
- Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân 
hàng sang kinh doanh thực sự. 
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, 
còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay. 
 15 
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng. 
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất: lãi suất 
Cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh. 
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp 
dụng lãi suất thoả thuận. 
-Lãi suất trần: Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh 
tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng. 
-Lãi suất thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ 
vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với 
lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy 
động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1 %/ tháng 
và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. 
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ 
các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay 
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ 
biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể 
 16 
hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay 
với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động nhất định. 
Thời kỳ này , các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất 
Cho vay và lãi suất huy động cao ,phổ biến là từ 0,7% -1% tháng 
,Cho nên ,hầu hết , các NHTM đều có mức lợi nhuận cao ,trong 
khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính .Từ thực trạng 
này ,Quốc hội khoá IX ,kỳ họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua 
nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng ,đồng 
thời yêu cầu các NHTM phải tiết giảm chi phí để giảm lãi suất Cho 
vay .Đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất Cho vay và lãi 
suất huy động 0,35%/tháng .Đó là lý do để chuyển sang một giai 
đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất . 
4.Từ 1/1/996 Chuyển từ lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất. 
 Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0, 
35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi 
suất. Vì thế từ 1/ 1/ 96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối 
đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo lãi suất 
 17 
cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định 
trước đó . 
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn 
khác nhau, chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định 
trần lãi suất có phân biệt như sau: 
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn. 
- Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn. 
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn. 
- Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng đối với các thành viên. 
 Giữa các trần lãi suất này lúc đầu có mức chênh lệch với 
nhau khá xa nhưng sau mỗi lần điều chỉnh khoảng cáh này đã rút 
ngắn lại và chỉ còn chênh lệch ít . 
 Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường là khu vực 
nông thôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít 
và chi phí hoạt động ngân hàng ở đây rất cao ,nên NHNN qui định 
trần lãi suất Cho vay nông thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút 
vốn từ thành thị về nông thôn .Nhưng nhiều quan điểm Cho rằng 
 18 
lãi suất Cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới 
ưu đãi nông nghiệp ,mới khuyến khích nông nghiệp phát triển . 
 Do đó , từ 21/1/1998 , Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức 
chênh lệch 0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa 
mức lãi suất cho vay của thành thị và nông thôn, NHNN quy định 
các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần lãi suất và 
không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa: 
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng. 
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng. 
- Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng. 
 Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành 
chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất 
tái cấp vốn đối với các TCTD ;trong khuôn khổ trần lãi suất 
Cho vay,TCTD được phép qui định các mức lãi suất Cho vay và 
lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn tín 
dụng từng giai đoạn ,nhằm mở rộng tín dụng ,góp phần quan 
trọng vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong nhứng năm 
qua . 
 19 
 Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên 
tục ,phù hợp với chỉ số lạm phát , quan hệ cung cầu vốn tín 
dụng tại từng thời điểm và góp phần thực hiện giải pháp kích 
cầu về đầu tư của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất 
tín dụng .Có thể nói đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín 
dụng nhiều nhất từ trước đến nay ,lãi suất năm 1999 luôn có xu 
hướng giảm sau các lần điều chỉnh , cụ thể như sau : 
 + Ngày 17/1/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ tị 
01/1999/CT-NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng 
đồng Việt Nam của các NHTM quốc doanh : đối với khách 
hàng ở khu vực thành thị từ 1,2 – 1,25%/tháng xuống 1-
1,15%/tháng ;các TCTD khác vẫ thực hiện theo mức trần 
1,2%/tháng đối với Cho vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với 
Cho vay trung và dài hạn . 
 + Ngày 29/05/1999 do nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu 
phát ,tăng trưởng kinh tế chậm lại ,sức mua giảm sút .Thống đốc 
NHNN đã có quyết định 184/1999/QĐ -NHNN 1 về việc điều 
chỉnh giảm trần lãi suất Cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,2-
 20 
1,25%/tháng xuống mức 1,15%/tháng áp dụng Cho các TCTD 
Cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn .Cùng với việc 
giảm trần lãi suất Cho vay ,NHNN còn giảm lãi suất tái cấp vốn 
từ 1%/tháng và lãi suất tái cấp vốn về Cho vay chỉ định thu mua 
tạm trữ xuất khẩu 0,9%/tháng xuống một mức thống nhất là 
0,85%/tháng . Như vậy , từ tháng 6/1999 từ chỗ nhiều trần lãi 
suất ngắn ,trung ,dài hạn trần lãi suất Cho vay khu vực thành thị 
và khu vực nông thôn khác nhau đã thống nhất chung một trần 
áp dụng chung Cho các TCTD ,không phân biệt quốc doanh hay 
cổ phần . 
 + Tháng 9/1999 ,Thống đốc NHNN có chỉ thị 
05/1999/CT –NHNN 1 điều chỉnh giảm lãi suất Cho vay bằng 
VND của các NHTM quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực 
thành thị từ 1,05%/tháng xuống 0,95%/tháng .Đây là bước tiến 
trong chính sách lãi suất ,tạo thế chủ động hơn Cho các TCTD 
trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và Cho vay phù hợp với điêù 
kiện về chi phí ,cung cầu trên từng vùng khác nhau và mức độ 
 21 
rủi ro của từng khoản vay ,tạo tiền đề Cho việc áp dụng cơ chế 
điều hành chính sách lãi suất của NHNN theo lãi suất cơ bản . 
Nhìn chung , việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau: 
+ Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức 
lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện 
kinh doanh , thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh 
doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi 
suất. 
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng 
khác nhau. 
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi 
suất thoả thuận, vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định. 
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ được lợi ích người vay, TCTD 
và người gửi tiền. 
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nước của NHNN về lãi suất 
trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền 
kinh tế thị trường. 
 22 
5.Từ 7/2000 đến nay :Một bước tiến mới trong việc hình thành 
lãi suất cơ bản : 
Hiện nay, NHNN đã công bố và Cho áp dụng lãi suất cơ bản 
làm cơ sở Cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ 
bản tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến sát đến 
sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do hoá lãi suất cho vay và lãi 
suất tiền gửi dưới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo 
quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ 
quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, 
giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. 
Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức 
tín dụng huy động với bất cứ laĩ suất nào, chạy đua về lãi suất tiền 
gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ, bảo đảm an toàn hệ thống và 
bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, với lãi suất cơ 
bản thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan 
hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu 
vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ 
chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô 
 23 
và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, 
ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở 
Việt Nam. 
II.Đánh giá những sai lầm trong việc điều hành chính sách lãi 
suất từ những năm 90 Cho đến nay: 
*. Đối với thời kỳ lãi suất âm : 
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trước năm 1988 ,lãi suất của 
Việt Nam không theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do 
NHNN áp đặt là một trong những nguyên nhân gây ra và kéo dài 
lạm phát phi mã . 
*.Đối với thời kỳ lãi suất dương : 
Thời kỳ này qui luật lãi suất thực mới được công nhận nhưng 
tư tưởng lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trường đã dẫn 
đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12%/tháng mặc dù tỷ lệ lạm phát 
 24 
cuối năm 1992 chỉ còn 5%/tháng . Lãi suất cực kỳ cao vẫn còn ảnh 
hưởng tâm lý đến ngày nay ,người gửi tiền đòi hỏi lãi suất cao . 
*.Đối với thời kỳ vừa qui định các mức lãi suất tiền gửi và 
Cho vay cụ thể ,vừa Cho vay theo lãi suất thoả thuận : 
Năm 1994, NHNN công bố chủ trương hạ lãi suất trong cuộc 
họp Giám đốc đầu năm . Nhưng chủ trương này không được thực 
hiện với lý do tỷ lệ lạm phát bj đẩy cao lên gấp đôi năm 1993 
.Trong ba năm chậm hạ lãi suất ,tiền gửi các ngân hàng chỉ sử 
dụng hết một nửa .Các doanh nghiệp đã è cổ ra gánh một lãi suất 
cao để trả Cho những người nước ngoài đem ngoại tệ vào đổi lấy 
VND để gởi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5