Trong suốt gần nửa đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" nói
chung và tiểu thuyết của Từ Chẩm Á nói riêng đã trở thành một món ăn tinh
thần không thể thiếu đối với tầng lớp thị dân Trung Quốc. Như đã đề cập ở
chương hai, sức hấp dẫn của tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" xuất phát từ nội
dung lôi cuốn với những cung bậc, cảm xúc của tình yêu nhưng cũng chứa
đựng đầy đủ những vấn đề chuyển giao của thời đại. Song, nếu chỉ dừng lại ở
đó, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" thật sự cũng chỉ là “một dòng chảy
ngược” như các nhà văn sau thời kỳ Ngũ Tứ đã kết luận. Vì vốn dĩ, tiểu
thuyết tình yêu đã phổ biến rất nhiều vào thời Minh Thanh, người đọc cũng
đã quá quen với loại tình yêu môn đăng hộ đối, theo một công thức nhất định,
và loại nhân vật không có tâm lý, nghìn người như một, Điều đó tạo nên
thách thức lớn không chỉ riêng đối với Từ Chẩm Á và các tác gia phái "uyên
ương hồ điệp" mà còn đối với hầu hết các nhà văn Trung Quốc lúc bấy giờ.
Vì vậy, vào năm 1912, sự ra đời của Ngọc lê hồn cùng hậu thân là Tuyết hồng
lệ sử (năm 1914) đã đánh dấu cho sự xuất hiện theo một khuynh hướng sáng
tác mới. Đó là khuynh hướng sáng tác được kết hợp từ nghệ thuật tiểu thuyết
truyền thống Trung Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây. Do đó, nếu
nói đến sức hấp dẫn của tiểu thuy ết "uyên ương hồ điệp" mà không đề cập nó
dưới góc độ nghệ thuật là một thiếu sót quan trọng. Trong chương này, chúng
tôi sẽ đề cập đến những đổi mới về nghệ thuật trong bốn thiên tiểu thuyết của
Từ Chẩm Á nhưng trọng tâm là tác phẩm Tuyết hồng lệ sử. Vì tác phẩm này
được xem là đỉnh cao nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông
71 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2488 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiểu thuyết uyên ương hồ điệp - Sự gặp gỡ Đông Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN
Tiểu thuyết uyên ương hồ
điệp - Sự gặp gỡ Đông Tây
Trong suốt gần nửa đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" nói
chung và tiểu thuyết của Từ Chẩm Á nói riêng đã trở thành một món ăn tinh
thần không thể thiếu đối với tầng lớp thị dân Trung Quốc. Như đã đề cập ở
chương hai, sức hấp dẫn của tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" xuất phát từ nội
dung lôi cuốn với những cung bậc, cảm xúc của tình yêu nhưng cũng chứa
đựng đầy đủ những vấn đề chuyển giao của thời đại. Song, nếu chỉ dừng lại ở
đó, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" thật sự cũng chỉ là “một dòng chảy
ngược” như các nhà văn sau thời kỳ Ngũ Tứ đã kết luận. Vì vốn dĩ, tiểu
thuyết tình yêu đã phổ biến rất nhiều vào thời Minh Thanh, người đọc cũng
đã quá quen với loại tình yêu môn đăng hộ đối, theo một công thức nhất định,
và loại nhân vật không có tâm lý, nghìn người như một,… Điều đó tạo nên
thách thức lớn không chỉ riêng đối với Từ Chẩm Á và các tác gia phái "uyên
ương hồ điệp" mà còn đối với hầu hết các nhà văn Trung Quốc lúc bấy giờ.
Vì vậy, vào năm 1912, sự ra đời của Ngọc lê hồn cùng hậu thân là Tuyết hồng
lệ sử (năm 1914) đã đánh dấu cho sự xuất hiện theo một khuynh hướng sáng
tác mới. Đó là khuynh hướng sáng tác được kết hợp từ nghệ thuật tiểu thuyết
truyền thống Trung Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây. Do đó, nếu
nói đến sức hấp dẫn của tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" mà không đề cập nó
dưới góc độ nghệ thuật là một thiếu sót quan trọng. Trong chương này, chúng
tôi sẽ đề cập đến những đổi mới về nghệ thuật trong bốn thiên tiểu thuyết của
Từ Chẩm Á nhưng trọng tâm là tác phẩm Tuyết hồng lệ sử. Vì tác phẩm này
được xem là đỉnh cao nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông. Dưới đây, chúng
tôi tiếp cận dưới ba góc độ chính là kết cấu, cốt truyện và đặc biệt là nhân vật
để thấy được sự giao thoa giữa bút pháp truyền thống trong tiểu thuyết Trung
Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây.
3.1. Kết cấu
Trong cuộc sống, mọi sự vật tồn tại đều cần có một kết cấu để đảm bảo sự hài
hòa, cân đối. Nhưng không phải tất cả mọi sự vật đều có một kết cấu nhất
định, đặc biệt là trong văn học. Bởi, mặc dù hiện thực cuộc sống rất phong
phú nhưng không đảm bảo mọi ý tưởng đều không trùng lặp. Ngay cả trong
cùng một câu chuyện, cùng một nhân vật, cùng một sự kiện ,… nhưng có
những tác phẩm mãi mãi không bao giờ được biết đến còn có những tác
phẩm lại trở thành bất hủ. Và điều tạo nên sự khác biệt đó chính là nhờ kết
cấu:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học bộ mới, kết cấu là: “thuật ngữ chỉ sự sắp xếp,
phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật - tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy
theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối
thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu là kết quả của nhận thức
thẩm mỹ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội
dung độc lập; các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu
hàm nghĩa của cái được mô tả”.[19;715]
Trong Lý luận văn học, kết cấu được xem là “sự tạo thành và liên kết
các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các
chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và
theo một chiều hướng tư tưởng nhất định. Vai trò của kết cấu chủ yếu được
khẳng định trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố của nội dung tác
phẩm như chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyện, các yếu tố ngoài cốt
truyện”.[18; 179]
Có thể thấy, kết cấu là cách một nhà văn sắp xếp, tổ chức các yếu tố nghệ
thuật đơn lẻ, rời rạc trở thành một thể thống nhất mà qua đó nhà văn có thể
chuyển tải cho người đọc những thông điệp của chính bản thân mình về cuộc
sống. Nhưng kết cấu không phải là sự kết nối một cách máy móc giữa các
yếu tố mà là một hình thức nghệ thuật sắp đặt sao cho một tác phẩm vừa
logic, chặt chẽ lại vừa có “vẻ duyên dáng của sự trật tự” (Horax).[19;715]. Và
một tác phẩm văn học có “vẻ duyên dáng của sự trật tự” đó hay không còn
phải phụ thuộc vào tư duy sáng tạo của nhà văn. Vì vậy, khi nghiên cứu một
tác phẩm tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết, tìm hiểu kết cấu của tác phẩm giúp
chúng ta nắm bắt được nội dung tác phẩm và ý đồ của nhà văn.
Thông thường, trong các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thường được
viết theo lối chương hồi. Vì vậy thường được gọi là tiểu thuyết chương hồi.
Cũng từ đó, kết cấu chương hồi trở thành một phương diện nghệ thuật của
tiểu thuyết chương hồi. Đơn vị của kết cấu chương hồi là các chương (hồi).
Dựa vào dung lượng, tiểu thuyết chương hồi có thể chia làm hai loại chính là
tiểu thuyết chương hồi loại lớn và tiểu thuyết chương hồi loại nhỏ:
Tiểu thuyết chương hồi loại lớn còn được gọi là tiểu thuyết trường thiên.
Những tác phẩm thuộc loại này thường có dung lượng trên 100 chương (hồi),
tiêu biểu có: Tam quốc chí, Thủy hử, Tây du ký, Kim Bình Mai, Hồng lâu
mộng, Chuyện làng nho, Long đồ công án. Các tiểu thuyết này không chỉ có
dung lượng tác phẩm đồ sộ mà còn có số lượng nhân vật rất lớn, sự kiện
nhiều,…
Còn các tiểu thuyết chương hồi loại nhỏ còn được gọi là tiểu thuyết trung
thiên. Loại tiểu thuyết này có dung lượng khoảng 30 chương (hồi) trở lại và
có nội dung không quá lớn, một số lượng nhân vật nhất định. Tiêu biểu cho
loại tiểu thuyết này có tiểu thuyết tài tử giai nhân. Tiểu thuyết tài tử giai nhân
đều có chung một kết cấu theo trình tự phát triển của thời gian, diễn biến từ
đầu đến cuối, trước sau rõ ràng theo một công thức nhất định: 1. Hội ngộ, 2.
Gặp loạn ly tán, 3. Đoàn viên.
Với ưu điểm chặt chẽ, mạch lạc, tạo được tâm lý hồi hộp chờ đợi ở
người đọc khiến truyện càng thêm hấp dẫn,… kết cấu chương hồi đã trở
thành kết cấu truyền thống mang tính bền vững khó có thể thay thế được.
Nhưng những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một mặt tư duy sáng tác
của các nhà văn ngày càng phát triển để đáp ứng lại nhu cầu của tầng lớp
công chúng mới muốn đọc tiểu thuyết; một mặt chịu ảnh hưởng bởi lối kết
cấu hiện đại phương Tây, nên các phẩm càng về sau càng cố gắng thoát khỏi
kiểu kết cấu chương hồi. Và chũng ta có thể thấy điều đó thông qua các tác
phẩm của Từ Chẩm Á.
Trong các tiểu thuyết chương hồi truyền thống thường chia thành nhiều
hồi, mở đầu mỗi hồi thường có một bài thơ ngắn khái quát nội dung hoặc lời
chuyển tiếp dẫn chuyện. Kết thúc mỗi hồi lại có có một bài thơ nhằm để
thông báo nội dung của hồi tiếp theo để kích thích sự tò mò của người đọc.
Các hồi thường được dừng ở những sự kiện đang phát triển đến cao trào,
người đọc muốn “biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ”.
Còn trong tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp", Từ Chẩm Á đã dần thoát
thai kết cấu chương hồi bằng cách chia các tác phẩm của mình thành nhiều
chương thay vì thành từng hồi. Như Ngọc lê hồn và Vợ tôi gồm ba mươi
chương; Giấc mộng nàng lê có dung lượng nhỏ hơn, chỉ có mười hai chương.
Riêng mở đầu Giấc mộng nàng Lê có lời đề từ của tác giả giống với tiểu
thuyết truyền thống:
“Mưa gió cành xuân lụy chứa chan,
Hoa tươi, ái ngại đóa hoa tàn.
Hồng nhan bạc mệnh âu là thế,
Khối hận nghìn thu dập khó tan.”[6;1]
Trong Ngọc lê hồn mỗi chương Từ Chẩm Á có đặt nhan đề để người đọc dễ
dàng nắm bắt được nội dung của từng chương và quá trình phát triển của câu
chuyện: Chương thứ nhất: Chôn hoa; Chương thứ hai: Khóc đêm; Chương
thứ ba: Dạy trẻ; Chương thứ tư: Duyên văn; Chương thứ năm: Tin xuân;
Chương thứ sáu: Vắng bạn; Chương thứ bảy: Quá say; Chương thứ tám:
Tặng lan; Chương thứ chín: Đề ảnh; Chương thứ mười: Nợ tình; Chương thứ
mười một: Sóng lòng; Chương thứ mười hai: Tình địch; Chương thứ mười
ba: Thuốc tâm; Chương thứ mười bốn: Ép duyên; Chương thứ mười năm: Xa
nhớ; Chương thứ mười sáu: Hội đèn; Chương thứ mười bảy: Vận đen;
Chương thứ mười tám: Khóc đôi; Chương thứ mười chín: Lòng thu; Chương
thứ hai mươi: Mộng dư; Chương thứ hai mươi mốt: Cầu hôn; Chương thứ hai
mươi hai: Tiếng đàn; Chương thứ hai mươi ba: Rứt tình; Chương thứ hai
mươi bốn: Mực máu; Chương thứ hai mươi năm: Tin ốm; Chương thứ hai
mươi sáu: Hóa duyên; Chương thứ hai mươi bảy: Nỗi riêng; Chương thứ hai
mươi tám: Đoạn trường; Chương thứ hai mươi chín: Nhật ký; Chương thứ ba
mươi: Qua thăm.
Nếu trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, do tuân theo lớp kết cấu văn
bản chia tác phẩm thành từng chương (hồi) các sự kiện, chi tiết trong tác
phẩm sẽ được nhà văn sắp xếp thứ tự từ trước đến sau theo thời gian tuyến
tính. Mở đầu tác phẩm, tác giả sẽ tường thuật xuất thân, lý do, hoàn cảnh gặp
gỡ giữa các nhân vật. Sau đó mới phát triển tiếp câu chuyện. Còn trong các
tác phẩm của mình, Từ Chẩm Á thường bắt đầu từ cao trào của tác phẩm.
Trong Vợ tôi, Từ Chẩm Á mở đầu bằng một cuộc chia tay đẫm lệ giữa một
đôi nam nữ:
“Đêm khuya canh tàn, khí trời lạnh lẽo, một đôi khả liên trùng
kia đang cùng nhau ti tỉ khóc than, bốn bề im lặng, chỉ có tiếng giun
kêu ở trong đám cỏ là lẫn với tiếng rên rỉ ấy mà thôi. Cái đêm hôm ấy
đêm gì, thật là một cảnh ma kêu quỉ khóc, thê thảm không biết dường
nào! Mà chị Nguyệt đa tình kia, vẫn còn quanh quẩn, hình như muốn
chụp cái ảnh hai người quyết biệt với nhau lần cuối cùng ấy.”[5;5]
Đây là cách mở đầu câu chuyện mà trước đó chưa có nhà văn Trung Quốc
nào thể hiện. Ngay cả Hồng lâu mộng, tác phẩm được xem là đỉnh cao của
tiểu thuyết Minh Thanh, cũng chịu ảnh hưởng phần nào từ phương pháp sáng
tác phương Tây nhưng vẫn có kết cấu từ trước đến sau rất trình tự và đầy đủ.
So với cách mở đầu trong tiểu thuyết truyền thống là ngay từ đầu đã cung cấp
hết những thông tin của nhân vật, cách mở đầu câu chuyện của Từ Chẩm Á
đã đem lại sự tò mò, mơ hồ cho người đọc. Từ đó, khiến người đọc không thể
không liên tiếp đặt những câu hỏi: Đôi khả liên trùng kia là ai? Họ có quan hệ
như thế nào? Vì sao lại phải chia tay? Cuộc tình của họ rồi sẽ đi về đâu?
Những câu hỏi như thế cứ thôi thúc, lôi cuốn người đọc từ trang này đến
trang khác để tìm cho mình câu trả lời.
Hay trong Giấc mộng nàng Lê, mở đầu tác phẩm là hình ảnh một gái mặc
chiếc áo rách đứng trong một túp nhà tranh chờ đợi cha mình trở về khiến
người đọc không thể nắm bắt được nội dung câu chuyện như thế nào và
muốn biết được thực hư, nguyên nhân ra sao thì bắt buộc họ phải theo dõi
tiếp câu chuyện:
“Trong túp nhà tranh kia có một người con gái mặc chiếc áo rách vá trăm
mụn, đứng trước cửa ngẩn ngơ như có nghĩ ngợi gì. Hồi lâu mặt trời vá đỉnh
non tây, các nông phu già trẻ đã vác gầu cuốc gánh cày bừa mà trở về, lần
lượt đi qua cửa ngoài, người con gái mới cất cái tiếng run rẩy mà gọi rằng:
Anh Ba ơi, anh có thấy cha tôi đâu không?” [6;1]
Đặc biệt, ở Ngọc lê hồn, Từ Chẩm Á lại đưa tình tiết Mộng Hà đang
chôn hoa trông thấy bóng một người thiếu phụ áo trắng:
“Trông thấy ở dưới gốc cây lê, một người con gái áo trắng quần là, dung
nhan yểu điệu, dạng bộ đoan trang, đầu không phấn điểm son tô, cũng đã
tưởng tượng như một người tiên nữ. Bây giờ đương lúc trăng trong như nước,
đêm sáng như ngày, cuối mắt đầu mày, trông rõ mồn một, người đó chăng?
hoa hiện hịnh đó chăng? Mái đầu tơ rối, giọt lệ mưa rào, cơn cớ chi đây, tựa
bên cây khóc lóc.” [3;11].
Khung cảnh mờ ảo cộng thêm những câu hỏi dồn dập ngay chính người
kể đặt ra đã tác động vào trong suy nghĩ của người đọc. Người phụ nữ áo
trắng đó là ai? Là người hay hoa? Đây là thực hay mộng? Từ đó, những câu
hỏi này cứ kích thích người đọc phải đi tìm câu trả lời. Để rồi khi những thắc
mắc đã tìm được lời đáp, người đọc sẽ khó mà quên được hình bóng người
phụ nữ đáng thương ấy.
Mặc dù trong tiểu thuyết Vợ tôi và Giấc mộng nàng Lê, Từ Chẩm Á đã
có những nỗ lực nhất định nhưng vẫn chưa thoát khỏi những khuôn mẫu của
kết cấu truyền thống mà phải đến Ngọc lê hồn, kết cấu tuyến tính mới dần bị
phá vỡ và thay vào đó là những dấu hiệu đầu tiên của kết cấu phi tuyến tính.
Bởi, tuy trong hai tác phẩm Vợ tôi, Giấc mộng nàng Lê, Từ Chẩm Á đã khéo
léo đảo trình sự thời gian, sự kiện lên đầu tác phẩm để kích thích trí tò mò
của người đọc, song, sự cách tân cũng chỉ dừng lại đó. Trong Ngọc lê hồn,
câu chuyện không chỉ mở đầu bằng chi tiết chôn hoa tạo sự hấp dẫn thu hút
người đọc mà đến hai chương cuối, khi Lê Nương chết, quá trình phát triển
của câu chuyện tạm dừng và thay vào đó là lời tự bạch của ký giả về mối
quan hệ giữa mình và nhân vật Mộng Hà. Sau đó, người ký giả mới tiếp tục
kể về số phận của nhân vật Mộng Hà và Quân Thiến thông qua lời kể của
một người bạn của ký giả là Hoàng Mỗ và quyển sách nhỏ đề tên Tuyết hồng
lệ thảo.
“Tôi cùng Mộng Hà vốn không quen biết gì cả, việc này là nhờ được một
người bạn truyền thuật cho nghe. Người ấy cùng Mộng Hà có tình bạn hữu
không cần phải nói nữa rồi, và có thể quyết là một người đối với cuốn truyện
này có quan hệ (…) Mùa đông năm Canh tuất (1910), tôi từ Ngô môn về quê
thấy trên án có một phong thư, xem ra thì thư từ của Thạch Si gửi đến. Ngoài
phong thư lại có một gói giấy, mở ra xem thì là một mớ tài liệu rất tốt cho
một thiên tiểu thuyết ái tình. Bức thư thì là lai lịch của cuốn Ngọc lê
hồn”.[3;203, 204].
Ngọc lê hồn không còn lối kết cấu thời gian đơn tuyến như trước, thay
vào đó là một thời gian tâm lí và không gian hồi tưởng của nhân vật ký giả.
Vì vậy, trong Ngọc lê hồn, người đọc có thể thấy được hai câu chuyện đồng
thời được kể lại song song với nhau: một là cuộc câu chuyện về bức thư của
Thạch Si, cuộc gặp gỡ giữa Hoàng Mỗ và người ký giả, cùng chuyến đi của
Thạch Si và ký giả đến nhà Quân Thiến; hai là chuyện tình giữa Mộng Hà và
Lê Nương. Nhờ lối kể chuyện này mà câu chuyện dường như thật hơn, người
người đọc càng tò mò hơn, hồi hộp theo dõi diễn biến câu chuyện hơn.
Đến Tuyết hồng lệ sử, tuy cùng một nội dung với Ngọc lê hồn nhưng
người đọc không hề cảm thấy nhàm chán vì Từ Chẩm Á đã tái tạo tác phẩm
bằng một kết cấu khác. Đó là kết cấu theo hình thức nhật ký được mô phỏng
theo Trà hoa nữ, một tiểu thuyết tình cảm của nhà văn Pháp Alexandre
Dumas (1824 -1895).
Tiểu thuyết Trà hoa nữ là câu chuyện kể về mối tình giữa nàng kỹ nữ
Marguerite và chàng trai quý tộc Duval. Nhưng trong Trà hoa nữ, câu chuyện
không kể từ trước đến sau mà được kể lại khi Marguerite đã chết. Trước khi
chết Marguerite viết thư cho Duval và nhắn chàng hãy đến tìm lại cuốn nhật
ký mà chàng đã từng tặng cho nàng. Duval nhận được thư và chàng tìm mọi
cách để mua lại cuốn sách mà chàng đã tặng Marguerite và gặp Julie Duprat
để lấy cuốn nhật ký Marguerite đã gửi cho chàng trước khi chết. Tất cả những
kỷ niệm trong câu chuyện tình giữa Marguerite và Duval hiện về bên trong
cuốn nhật ký ấy. Và sau đó Duval kể lại cho nhân vật “tôi” nghe câu chuyện
tình của mình và Marguerite:
“Dù sao đi nữa, tôi phải kể anh nghe câu chuyện này, anh sẽ viết thành sách,
có thể chẳng ai tin, nhưng viết nó ra chắc cũng thú vị lắm.
- Anh sẽ kể tôi nghe sau, anh bạn ạ, tôi nói, hiện giờ anh
chưa bình phục lắm.
- Đêm thật ấm áp, tôi vừa ăn miếng gà luộc, anh mỉm cười
nói, tôi không bị sốt, chúng ta lại rảnh rang tôi sẽ kể hết anh
nghe.
- Bởi anh đã nhất quyết rồi, tôi xin nghe đây.
- Câu chuyện thật bình thường, anh nói thêm, tôi chỉ kể
theo thứ tự những sự việc đã xảy ra. Nếu sau này, anh có ý
định làm gì, cứ trọn quyền sắp xếp!
Sau đây là những gì anh kể, tôi chỉ thay đổi vài chữ trong câu chuyện cảm
động này.” [11; 69].
Trong Trà hoa nữ, thời gian hiện tại (khi Marguerite đã chết) và thời gian
quá khứ (khi Marguerite còn sống) đan xen lẫn lộn không theo một trình tự
thời gian nhất định nào cả:
“Đến đây, Armand dừng lại.
Nhờ anh đóng giùm cửa sổ, tôi bắt đầu thấy lạnh, anh nói. Trong lúc đó tôi sẽ
nằm nghỉ.
Tôi đóng cửa sổ lại Armand còn rất yếu, cởi bỏ bộ áo ngủ ngả mình trên
giường, tựa đầu trên gối trong giây lát như một người mệt mỏi sau chuyến đi
dài hay xao động vì những kỷ niệm buồn đau. “Có lẽ vì anh nói nhiều quá,
hay là tôi về để cho anh ngủ? tôi nói - Lúc khác, anh sẽ kể tôi nghe đoạn cuối
câu chuyện.
Bộ anh chán rồi à?
Không đâu.
Vậy thì tôi sẽ tiếp tục kể, nếu anh bỏ tôi một mình tôi cũng không ngủ được.
Khi về nhà, - anh kể tiếp, không cần phải suy tưởng nhiều, vì mọi tình tiết
vẫn còn biểu hiện trong tâm trí - tôi không ngủ, mà cứ nghĩ ngợi về chuyện
tình cờ vừa qua. Gặp gỡ, giới thiệu rồi hứa hẹn của Marguerite, mọi việc xảy
ra quá nhanh, ngoài mong ước đến nỗi lúc tôi cứ ngỡ là trong mơ. Tuy nhiên,
đây đâu phải là lần đầu tiên một người đàn bà như Marguerite hò hẹn với một
gã đàn ông, ngay hôm sau, ngày hắn ta tỏ tình.” [11; 119, 120].
Mô phỏng Trà hoa nữ, trong Tuyết hồng lệ sử, những diễn biến cuộc
đời và số phận của các nhân Mộng Hà, Lê Ảnh, Quân Thiến được chính
Mộng Hà kể lại từ tháng giêng năm Kỷ Dậu đến tháng bảy năm Canh Tuất.
Tháng giêng là thời điểm bắt đầu của cuốn nhật ký, trong phần này, nhân vật
Mộng Hà đã tự giới thiệu về mình, hoàn cảnh gia đình và lý do đến làng Loa
thôn:
“Tháng giêng (năm Kỷ Dậu 1909)
Hôm nay là ngày tết nguyên đán. Từ khi tôi ra đời đến nay, đã trải tết nguyên
đán này đã hai mươi ba lần rồi, bóng xuân như mũi tên bay, mà tôi thì như
cái cung, tên bay đi mà cung vẫn ở lại, im phắc như tờ. Năm thì một ngày
một mới mà người thì một ngày một cũ đi, mòn mỏi thông minh hết quách
rồi, còn đời ngây dại bán cho ai…”[4;13].
Đến tháng hai, Mộng Hà kể lại chuyến đi cùng người bạn là Tử Xuân đến
làng Loa thôn và nhận làm gia sư cho cậu bé Bằng lang, cháu nội của gia
đình họ Thôi:
“Tháng hai
Tôi cũng bác Tử Xuân xuống đò.
Lênh đênh một chiếc thuyền bồng,
Khối tình ly biệt tấm lòng xót thương.
Sông xuân nổi sóng đoạn trường,
Con đường danh lợi là đường phong ba
Trong khi ngồi thuyền tôi kể chuyện gia tình, Tử Xuân cũng có ý ái ngại mà
khuyên giải tôi ,…”[4;16]
Câu chuyện cứ thế tiếp tục, mỗi tháng Mộng Hà lại viết nhật ký một lần để
viết lại những việc xảy ra trong tháng đó: từ việc Mộng Hà chôn hoa nhìn
thấy Lê Ảnh (tháng hai dư); Mộng Hà vì bị Lê Nương cự tuyệt rồi uống rượu
mà sinh bệnh (tháng ba); Mộng Hà đưa học trò đi chơi trường học Nga hồ và
thề kiếp này không lấy được Lê Ảnh thì cũng không chung tình với ai (tháng
tư); Quân Thiến từ trường Nga hồ trở về, Lê Nương ép Mộng Hà cầu thân với
Quân Thiến (tháng năm); ... Đến tháng Chạp, tức là sau gần một năm Mộng
Hà đến làm gia sư cho nhà họ Thôi, Mộng Hà trở về quê, Lê Nương đổ bệnh
nặng:
“Tháng chạp
Năm đã sắp hết, mẹ tôi gửi giấy sang giục về, rồi tôi theo lệ nhà trường sát
hạch học trò, bận mất mấy ngày. Hôm nay công việc đã xong, định đến sáng
mai thì về. Mà Thạch Si thì chắc sắp đến áp tết mới về, tôi không thể đợi
được, mà Lê Ảnh cũng không dám lưu luyến.”[4;129]
Từ đó trở đi, suốt sáu tháng liền, Mộng Hà không viết nhật ký nên. Sau khi
Quân Thiến chết vào ngày 17 tháng 6 năm Canh tuất, Mộng Hà mới viết tiếp
nhật ký để kể lại cái chết của Lê Nương và Quân Thiến:
“Từ tháng giêng cho đến tháng sáu năm canh tuất
Bước sang năm nay, tôi chưa chép nhật ký, đến bây giờ đã là tháng bảy rồi.
Trong cuộc đoạn tràng ấy, rút lại chỉ có một năm rưỡi mà trong hồi nửa năm
sau, những việc mắt trông thấy lại càng như gió cuốn mây bay, phút chốc đã
tan tành hết cả.”[4;132].
Kết cấu dưới hình thức nhật ký, câu chuyện sẽ được kể từ điểm nhìn
ngôi thứ nhất của chính nhân vật Mộng Hà nên thế giới nội tâm, tâm trạng và
suy nghĩ của nhân vật hiện lên một cách trung thực và tự nhiên. Bởi vì, nhật
ký là những ghi chép về hiện tại, với những sự kiện xảy ra từng ngày, từng
tháng và có giá trị riêng tư nên tạo cho người đọc sự tin tưởng về tính chân
thực của câu chuyện.Và những đặc trưng cũng như tác dụng của hình thức
nhật ký sẽ được chúng tôi đề cập sâu hơn trong phần nghệ thuật miêu tả tâm
lý nhân vật.
Bên cạnh sự thay đổi trật tự các sự kiện, chi tiết trong tác phẩm, tiểu
thuyết của Từ Chẩm Á còn thay đổi kết thúc đòan viên. Trong tiểu thuyết
truyền thống, kết thúc người con trai thường đạt được công danh trở về,
người