Đã từ lâu, ở mọi vùng quê trên đất nước Việt Nam thường diễn ra những ngày lễ
hội gắn với các truyền thuyết và sự tích về các Nữ thần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có
chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngưỡng
dân gian mà không theo một qui luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua
lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của
người dân đất Việt.
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ngay từ khi hình thành, văn hóa Việt Nam đã mang tính thống nhất, nhưng vẫn
có những nét riêng về văn hóa, đánh dấu sự khác biệt giữa tộc người này với tộc người
khác.
Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Mặt khác, chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học- kỹ thuật thế giới đang là cơ
hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Một vấn đề đặt ra là muốn
đa dạng văn hóa thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác để tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của nhân loại.Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn
hóa khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp
nhiều khó khăn và trở ngại.
90 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9316 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu, ở mọi vùng quê trên đất nước Việt Nam thường diễn ra những ngày lễ
hội gắn với các truyền thuyết và sự tích về các Nữ thần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có
chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngưỡng
dân gian mà không theo một qui luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua
lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của
người dân đất Việt.
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ngay từ khi hình thành, văn hóa Việt Nam đã mang tính thống nhất, nhưng vẫn
có những nét riêng về văn hóa, đánh dấu sự khác biệt giữa tộc người này với tộc người
khác.
Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Mặt khác, chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học- kỹ thuật thế giới đang là cơ
hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Một vấn đề đặt ra là muốn
đa dạng văn hóa thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác để tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của nhân loại.Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn
hóa khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp
nhiều khó khăn và trở ngại.
Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII),
đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ” và “Nền văn hóa mà chúng ta
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [10, tr.55].
Chúng ta biết rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngưỡng có từ rất
lâu. Nó là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ nền văn minh
nông nghiệp lúa nước và là một hình thức tôn vinh người phụ nữ làm Quốc Mẫu, Thánh
Mẫu, Vương Mẫu…nhiều nơi những cơ sở thờ Mẫu đã trở thành những trung tâm thờ
Mẫu lớn như Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ, Đền Sòng…
Thờ Mẫu nói chung và thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là một khái niệm tương đối phức
tạp. Về phương diện điện thần thì thờ Mẫu bước đầu đã hình thành một hệ thống và có
những nghi lễ điển hình như hầu bóng(hầu đồng)… mà các tín ngưỡng dân gian khác
không có. Vì thế, tính phức tạp lại càng tăng lên khi có nhiều quan điểm khác nhau về thờ
Mẫu. Có quan điểm cho rằng thờ Mẫu đã trở thành một tôn giáo sơ khai, nhưng lại có
những quan điểm không đồng tình, chỉ khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian…
Điều này càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là những
người quan tâm đến lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Công cuộc đổi mới đất nước hai mươi năm qua ở nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong các lĩnh vực đời sống xã hội. ở lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng có
những biến đổi căn bản, trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của
công tác tôn giáo.
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra trên toàn thế giới.
Việt Nam cũng đang hòa nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên, chúng ta gặp phải một thách thức
không nhỏ, khi mà bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng rộng rãi như hiện nay. Vấn đề
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc như thế nào là việc làm cần thiết, có lẽ chúng ta
không cần nhắc lại tác hại của việc đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Điều quan trọng là
phải tìm được những giải pháp giữ gìn và phát huy những yếu tố tích cực của bản sắc văn
hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Tôn giáo, tín ngưỡng là một nhu cầu tâm linh của một bộ phận cư dân trong xã hội.
Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam thì tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín
ngưỡng dân gian khá phổ biến trong xã hội. Theo thống kê của Viện Hán Nôm năm 1991 thì:
“Trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh
nhân là nữ” [45, tr.24].
Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn với thân phận của người
phụ nữ Việt Nam … Người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che
chở của người mẹ…dẫu biết rằng khi đến với tín ngưỡng này con người cầu xin từ những
cái vô hình, để hy vọng có thể nhận được những cái hữu hình.
Tôn giáo - tín ngưỡng - mê tín dị đoan, là ba khái niệm rất phức tạp, là vấn đề đang
được sự quan tâm của nhiều người, nhiều ngành khoa học khác nhau. Hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta cho phép phục hồi một số lễ hội truyền thống, trong đó có cả tín ngưỡng thờ
Mẫu. Ngoài ra, nhu cầu trở về cội như một xu thế vừa tự phát lại vừa tự giác đã kéo theo
hiện tượng mà trước kia được liệt vào dạng “mê tín dị đoan”, nhưng nay lại đang diễn ra
khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều di tích và công khai, đó là nghi thức hầu bóng (hầu đồng)
trong thờ Mẫu. Vấn đề đặt ra là cần loại bỏ “mê tín dị đoan” nhưng phải tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của công dân được pháp luật bảo vệ. Song đối mặt với thực tế cuộc sống đó là
điều hết sức nhạy cảm và phức tạp. Hiện nay, chưa có căn cứ rõ ràng để phân biệt cái gì là văn
hóa, cái gì là phản văn hóa; cái gì là “ mê tín”, cái gì là “dị đoan” trong hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số
người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã
tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói
riêng nhằm trục lợi cá nhân, gây mất ổn định xã hội … Đây là điều mà các cơ quan quản lý
các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và tránh xa những hiện tượng
tiêu cực này.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã tồn tại
trong lịch sử và cả thời đại ngày nay. “Mẫu” là hình tượng, một biểu trưng và là sự kết tinh
sống động của đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam. “Mẫu ” có sức hấp dẫn
đặc biệt, nhưng cũng đặt ra không ít các vấn đề cho nhiều nhà khoa học, nhiều người
nghiên cứu quan tâm theo nhiều hướng khác nhau trong toàn xã hội.
Đến với “Mẫu” không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu đời sống tâm
linh, tín ngưỡng thờ Mẫu còn là hiện tượng sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn
có sức lôi cuốn con người. Người ta đến với “Mẫu ” còn có cả sự đồng cảm về giá trị văn
hóa và góp phần củng cố ý thức cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Với những lý do trên, nên tôi chọn vấn đề: " Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ hiện nay ", làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong phần tình hình nghiên cứu đề tài này, luận văn chỉ xin nêu một số tác phẩm
của một số tác giả trong nước viết về tín ngưỡng thờ Mẫu.
Theo GS Vũ Ngọc Khánh tính từ thế kỷ XVII đến nay (không kể đến những ý kiến
viện dẫn hoặc phân tích trên các sách báo và các thần tích lưu tại các địa phương và các
phủ điện thờ) sơ bộ đã có 25 công trình với ba ngôn ngữ (Hán nôm, Việt, Pháp) viết về
Chúa Liễu - Mẫu Liễu Hạnh gồm: Sách Hán Nôm (Vân Cát Lê gia ngọc phả; Truyền kỳ
tân phả; Vân Cát thần nữ cổ lục …), sách Quốc ngữ và chữ Pháp (Nam Hải dị nhân của
Phan Kế Bính; Truyện thần nữ Vân Cát của Thiên Đình hay Nam Phong 1930; Sự tích
Liễu Hạnh công chúa của Trọng Hối 1959; Leculte des immortels…Nguyễn Văn Huyên
1944.
Về Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì: “Lê Gia ngọc phả vẫn là tài liệu trước nhất ghi chép
về Liễu Hạnh. Và có thể khẳng định là Đoàn Thị Điểm đã dựa vào truyền thuyết dân gian
để sáng tạo, hư cấu nhiều hơn” [24, tr.35].
Sau khi miền Nam được giải phóng (1975) cả nước được thống nhất, chúng ta có
nhiều điều kiện tập trung nghiên cứu. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
cuộc hội thảo và các bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam (không kể những bài viết
trong báo và tạp chí) cơ bản đó là:
- “Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “Đạo Mẫu và các hình thức Shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu á ” năm 2004 của tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ
biên). ở đây, tác giả đã đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam đã trở thành Đạo Mẫu. Quan điểm này hiện nay có nhiều nhà khoa học chưa đồng
tình.
- “Văn hóa tâm linh Nam bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997), tác giả có viết một
chương về tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng là thờ Mẫu ở Nam bộ.
- Cuốn “di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam ”, tác giả Lê
Quang Trứ (2000) có bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng còn sơ sài, tác giả giới thiệu dàn
đều bốn loại hình tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam.
- Cuốn “Lịch sử tín ngưỡng Đông Nam á ” xuất bản năm 2000, tái bản năm 2003
của TS Trương Sĩ Hùng (chủ biên), trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt Nam một tín
ngưỡng điển hình ở Đông Nam á. Tác giả giới thiệu về lễ hội thờ Mẫu và bước đầu đưa ra
kết luận tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam mang sắc thái điển hình ở Đông Nam á.
- Phân viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật thành phố Huế (2001) viết cuốn “Tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung”do Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) lại một lần nữa khẳng
định về tục thờ Mẫu và diễn trình của tục thờ Mẫu, các tác giả đi sâu vào các nữ thần ở
Miền Trung, đặc biệt là Thần Nữ YANA.
- GS Vũ Ngọc Khánh, tác giả của cuốn sách “ Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ”(tái
bản có sửa chữa, bổ sung)(2001), tác giả có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện
nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng không
nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái quát từng loại hình tín ngưỡng
dân gian mà thôi.
- Cuốn “Lễ hội dân gian ở Nam bộ” (2003) của TS Trương Quốc Thắng có bài viết:
Lễ hội thờ Mẫu - Nữ thần nguyên gốc từ sinh hoạt dân gian Bắc Bộ. Tác giả chủ yếu giới
thiệu con đường đưa tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc vào miền Nam như thế nào?.
- Cũng trong năm 2003, tác giả Nguyễn Chí Bền viết cuốn “Văn hóa dân gian
những phác thảo”. Cuốn sách này tác giả đề cập đến tục thờ Mẫu của người Việt nhưng ở
vùng Nam Bộ.
- Cuốn “Văn hóa Thánh Mẫu ” của Đặng Văn Lung (2004), tác giả đã rất tâm huyết
với vấn đề “Mẫu ” nên đưa ra rất nhiều các tư liệu về các “Mẫu” nhưng lại viết dưới góc
độ văn hóa, văn học và lịch sử chứ chưa xét dưới góc độ tín ngưỡng và tôn giáo.
- Năm 2005, cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam ” do
TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề
cập đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào
nguồn gốc, vai trò…của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
- Năm 2005, Mai Thanh Hải là tác giả cuốn sách “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam ”. Tác giả đưa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và thờ
Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh.
Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước, trong
những năm gần đây về tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả luận văn mà chưa có điều kiện liệt kê
tất cả những danh mục viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam hiện đang có ở nhiều tác
phẩm và bài viết. Và cũng chưa có cơ hội được đọc hết các luận văn nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ - Tứ phủ của các tác giả Việt Nam dưới các góc độ
khác nhau.
Tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu
tầm, tích lũy chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về tín ngưỡng
thờ Mẫu tại các trung tâm thờ Mẫu, chúng tôi muốn nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm về tín
ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu, nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị phát huy những giá trị tích cực và khắc phục
những hạn chế trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
-Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng
bằng Bắc bộ.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá và rút ra một số nhận xét trong tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu tới đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã có từ rất lâu, nó đã bám rễ ăn sâu vào đời sống
tinh thần của người dân từ Bắc vào Nam. Vì thời gian và trình độ hạn chế với đề tài này,
tác giả luận văn xin được giới hạn:
- Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với những đặc
điểm, vai trò của nó.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không nghiên cứu nữ thần và nghi thức thờ cúng, lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu.
+ Không gian: Nghiên cứu thực trạng trung tâm thờ Mẫu Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ ở
đồng bằng Bắc bộ và Đền Sòng (Đền Sòng cũng là một trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh, có
quan hệ mật thiết với Phủ Dầy và Phủ Tây Hồ. Tỉnh Thanh Hóa còn là tỉnh nằm liền kề vùng
đồng bằng Bắc bộ).
+ Thời gian: Kể từ khi có nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ chính trị về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới năm 1990 cho tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà Nước về tín ngưỡng, tôn giáo
…làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn quán triệt những nguyên tắc phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu; đồng thời sử dụng những phương pháp khác như:
điều tra khảo sát, thống kê và tổng hợp, phương pháp lôgíc, lịch sử, điền giã…để đạt mục
đích và thực hiện những nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn tổng hợp, khái quát hóa những đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
Dự báo xu hướng biến đổi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ trong
những năm tới.
Từ góc độ nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn tác giả luận văn bước đầu đưa ra
những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế tiêu
cực đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với đặc
điểm của nó.
Luận văn giúp cho người đọc hiểu thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
và nét sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt
Nam.
Ngoài ra, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho trường chính trị các tỉnh, các
Học viện khu vực và những người làm công tác quản lý văn hóa, nghiên cứu, giảng dạy về
tín ngưỡng, tôn giáo.
Thông qua nội dung luận văn, giúp cho các nhà quản lý hiểu thêm một phần nào đó
nhằm phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức trong thờ Mẫu. Đồng thời, hạn chế những
mặt tiêu cực của loại hình tín ngưỡng này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3
chương, 9 tiết.
Chương 1
Tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng bắc bộ
1.1. Khái niệm, nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ mẫu ở
đồng bằng Bắc bộ
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu
Để tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu, trước tiên ta phải tìm hiểu sơ qua khái
niệm tín ngưỡng, tôn giáo là như thế nào? bởi vì hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có
một quan điểm thống nhất xem thờ Mẫu là tín ngưỡng hay tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này đã được
Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc của con người” [31, tr.437].
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh
thần bí, thuộc lĩnh vực "tinh thần" tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức
mạnh cho con người. Đại diện cho trường phái này là Platon, Hêghen…
Đối với các nhà thần học như Tômat Đacanh, Etôrotcho… xem tín ngưỡng, tôn giáo
là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có
một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được
hạnh phúc và sự bình yên.
Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ mật thiết mà ranh giới
để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tôn giáo.Trong giáo trình Chủ
nghĩa xã hội Khoa học có viết:
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn
giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng
có quan niệm, ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo [19, tr.449].
Về mặt thuật ngữ tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay trên thế giới được sử dụng như sau:
Tiếng Việt Tiếng Anh Tiếng Pháp
Tín ngưỡng Belief Croyance(niềm tin)
Tôn giáo Religion Religion
Việt Nam từ trước đến hiện nay, vấn đề tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác
nhau.
GS Đặng Nghiệm Vạn, với quan điểm là:
Thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng,
người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, lelieve, croyance)
hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là
niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief,
believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ
yếu nhất cấu thành của tôn giáo [50tr.76].
Các học giả như Toan ánh, Phan Kế Bính… Xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian
với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc
Việt Nam.
Có ý kiến khác thì cho rằng nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “Lòng tin, sự
ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu
thực, hư ảo, vô hình” [30, tr.6].
Nguyễn Chính cho tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân
của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên
mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được.
Có một quan điểm khác gần giống như GS. Đặng Nghiêm Vạn. Ông cho rằng: “tín
ngưỡng nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa
là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn
giáo(Croyance religieuse)” [38, tr.50]. Cũng theo tác giả này thì “tín ngưỡng ”, nếu xét về
mặt ngữ nghĩa, chỉ là một niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà
chúng ta thường gọi là “tín ngưỡng”, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ
của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó thì các nhà tôn giáo học thường dùng
với thuật ngữ là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp hay
chữ Whorship của tiếng Anh.
Trong Hán-Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng
mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa.
Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng: “tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm
tin thiêng liêng) cũng có nghĩa tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng
dẫn tới tôn giáo” [40, tr.97].
Hay Tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và
“một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa
mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo- tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá
trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…” [46, tr.12].
Hiện nay,