Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là một trong những nguyên nhân chính gây
tỷ lệ mắc, tử vong cao ở trên thế giới. NKBV thường gây nên do các vi khuẩn
kháng đa kháng sinh, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều trị, kéo dài thời
gian mắc bệnh, nguy cơ tử vong cao. Hiện nay carbapenem là nhóm kháng sinh
mạnh nhất “thuộc nhóm lựa chọn cuối cùng” để điều trị cho các trường hợp bị
NKBV nặng cũng đang mất dần hiệu lực. Đặc biệt năm 2008, giới khoa học đã
công bố thông tin chấn động về việc phát hiện ra các chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen mới New Delhi metallo-beta-lactamase-1 (NDM-1) ở
bệnh nhân người Thụy Điển có tiền sử chữa bệnh tại Ấn Độ có tính kháng
kháng sinh rất mạnh, dẫn đến nguy cơ làm giảm hiệu quả và vô hiệu hóa nhóm
kháng sinh hết sức quan trọng này trong thực hành lâm sàng và hiện tại các
chủng vi khuẩn này đã lây lan ra nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, hai căn nguyên gây NKBV thường gặp là P. aeruginosa và A.
baumannii được đánh giá ở 6 bệnh viện năm 2008 đã kháng kháng sinh nhóm
carbapenem lần lượt là 20% và 50%. Bệnh viện Việt Đức là bệnh viện ngoại
khoa đầu ngành mỗi năm bệnh viện thực hiện khoảng 28.000 ca phẫu thuật và
luôn trong tình trạng quá tải, gây nhiều khó khăn cho công tác phòng chống
nhiễm khuẩn. Kháng sinh nhóm carbapenem hiện được sử dụng thường xuyên,
điều này sẽ dẫn đến nguy cơ cho các vi khuẩn kháng lại nhóm kháng sinh này.
Cho đến nay chưa có nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tình trạng kháng kháng
sinh của vi khuẩn nói chung và đặc biệt là về vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1. Đây là vấn đề rất mới và hầu như chưa có nghiên cứu này tại Việt
Nam.Việc có những hiểu biết cơ bản và chuyên sâu về vấn đề này bao gồm :
dịch tễ học, lâm sàng, các yếu tố nguy cơ, đặc điểm về vi sinh và sinh học phân
tử của vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 là hết sức cấp thiết và vô
cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay, qua đó sẽ giúp cho các nhà chuyên
môn và quản lý y tế trong việc định hướng sử dụng thuốc và đưa ra các giải
pháp khống chế sự lây lan của vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1
trong bệnh viện và cộng đồng tại Việt Nam. Chính vì sự cần thiết và ý nghĩa
thực tiễn đã nêu ở trên chúng tôi tiến hành đề tài “Một số đặc điểm dịch tễ học
của nhiễm khuẩn bệnh viện do vi khuẩn kháng carbapenem mang gen
NDM-1 tại bệnh viện Việt Đức-Hà Nội, 2010-2011” với 3 mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện do vi
khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 phân lập tại bệnh viện Việt Đức-Hà
Nội.
2. Mô tả tình trạng ô nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1
trong một số mẫu môi trường bệnh viện Việt Đức.
3. Xác định một số đặc điểm sinh học phân tử của một số chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1.
24 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1832 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tóm tắt Một số đặc điểm dịch tễ học của nhiễm khuẩn bệnh viện do vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 tại bệnh viện Việt Đức-Hà Nội, 2010-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là một trong những nguyên nhân chính gây
tỷ lệ mắc, tử vong cao ở trên thế giới. NKBV thường gây nên do các vi khuẩn
kháng đa kháng sinh, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều trị, kéo dài thời
gian mắc bệnh, nguy cơ tử vong cao. Hiện nay carbapenem là nhóm kháng sinh
mạnh nhất “thuộc nhóm lựa chọn cuối cùng” để điều trị cho các trường hợp bị
NKBV nặng cũng đang mất dần hiệu lực. Đặc biệt năm 2008, giới khoa học đã
công bố thông tin chấn động về việc phát hiện ra các chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen mới New Delhi metallo-beta-lactamase-1 (NDM-1) ở
bệnh nhân người Thụy Điển có tiền sử chữa bệnh tại Ấn Độ có tính kháng
kháng sinh rất mạnh, dẫn đến nguy cơ làm giảm hiệu quả và vô hiệu hóa nhóm
kháng sinh hết sức quan trọng này trong thực hành lâm sàng và hiện tại các
chủng vi khuẩn này đã lây lan ra nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, hai căn nguyên gây NKBV thường gặp là P. aeruginosa và A.
baumannii được đánh giá ở 6 bệnh viện năm 2008 đã kháng kháng sinh nhóm
carbapenem lần lượt là 20% và 50%. Bệnh viện Việt Đức là bệnh viện ngoại
khoa đầu ngành mỗi năm bệnh viện thực hiện khoảng 28.000 ca phẫu thuật và
luôn trong tình trạng quá tải, gây nhiều khó khăn cho công tác phòng chống
nhiễm khuẩn. Kháng sinh nhóm carbapenem hiện được sử dụng thường xuyên,
điều này sẽ dẫn đến nguy cơ cho các vi khuẩn kháng lại nhóm kháng sinh này.
Cho đến nay chưa có nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tình trạng kháng kháng
sinh của vi khuẩn nói chung và đặc biệt là về vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1. Đây là vấn đề rất mới và hầu như chưa có nghiên cứu này tại Việt
Nam.Việc có những hiểu biết cơ bản và chuyên sâu về vấn đề này bao gồm :
dịch tễ học, lâm sàng, các yếu tố nguy cơ, đặc điểm về vi sinh và sinh học phân
tử của vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 là hết sức cấp thiết và vô
cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay, qua đó sẽ giúp cho các nhà chuyên
môn và quản lý y tế trong việc định hướng sử dụng thuốc và đưa ra các giải
pháp khống chế sự lây lan của vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1
trong bệnh viện và cộng đồng tại Việt Nam. Chính vì sự cần thiết và ý nghĩa
thực tiễn đã nêu ở trên chúng tôi tiến hành đề tài “Một số đặc điểm dịch tễ học
của nhiễm khuẩn bệnh viện do vi khuẩn kháng carbapenem mang gen
NDM-1 tại bệnh viện Việt Đức-Hà Nội, 2010-2011” với 3 mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện do vi
khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 phân lập tại bệnh viện Việt Đức-Hà
Nội.
2. Mô tả tình trạng ô nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1
trong một số mẫu môi trường bệnh viện Việt Đức.
3. Xác định một số đặc điểm sinh học phân tử của một số chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1.
2
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Là một trong những nghiên cứu đầu tiên về vi khuẩn kháng carbapenem
mang gen NDM-1 tại Việt Nam.
2. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được bằng chứng đầu tiên về sự có mặt của
vi khuẩn kháng carbapenem “kháng sinh mạnh nhất hiện nay” mang gen
NDM-1 tại Việt Nam. Đây là vấn đề cựu kỳ nghiêm trọng và là thách
thức lớn đối với ngành y tế Việt Nam.
3. Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1 tại bệnh viện Việt Đức.
4. Tình trạng ô nhiễm vi khuẩn kháng carbapenm mang gen NDM-1 trong
môi trường bệnh viện Việt Đức.
5. Một số đặc tính sinh học phân tử của các chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1.
BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án bao gồm 124 trang. Phần đặt vấn đề 3 trang; Kết luận 2 trang; Kiến
nghị 1 trang; Những đóng góp mới 1 trang; Đề xuất 1 trang; Luận án có 4
chương: Chương 1: Tổng quan 42 trang; Chương 2: Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu 18 trang; Chương 3: Kết quả nghiên cứu: 37 trang; Chương
4: Bàn luận 20 trang, có 23 bảng, và 31 hình, phụ lục và 144 tài liệu tham
khảo với 2 tài liệu tiếng Việt và 142 tài liệu tiếng Anh.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Nhiễm khuẩn bệnh viện
Hiện nay NKBV là một vấn đề nghiêm trọng tác động đến sức khoẻ toàn
cầu. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới từ năm 1995 đến 2010 cho thấy:
Tỷ lệ NKBV tính chung cho các quốc gia có thu nhập cao khoảng 7,6%. Tỷ
lệ NKBV ở các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp từ 5,7% đến 19,9%.
Đặc biệt trong 10 năm vừa qua, các vi khuẩn Gram âm là nguyên nhân quan
trọng gây NKBV đã kháng lại các nhóm kháng sinh thế thệ mới như
cephalosporin và carbapenem và gia tăng một cách nhanh chóng trên toàn
thế giới đã đe doạ đến hiệu quả điều trị cho bệnh nhân tại các bệnh viện.
1.2. Kháng sinh và sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
Việc phát minh ra kháng sinh ở thế kỷ 20 đã đóng một vai trò quan trọng
trong việc khống chế các bệnh nhiễm trùng và làm giảm tỷ lệ tử vong của
các bệnh nhiễm trùng. Tuy nhiên hiện nay sự gia tăng tỷ lệ các vi khuẩn
kháng kháng sinh trong bệnh viện và cộng đồng là một mối lo ngại và thách
thức lớn đối với nền y học.
1.2.1. Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
3
1.2.1.1. Sự phát triển đặc tính kháng kháng sinh của vi khuẩn
Dưới áp lực chọn lọc tự nhiên đã giúp vi khuẩn có khả năng chống lại tác
dụng của kháng sinh, do vậy sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn thường
xuất hiện rất nhanh ngay sau khi kháng sinh được đưa vào sử dụng. Trong
thời gian gần đây, một số chủng vi khuẩn Gram âm gây NKBV đã kháng lại
tất cả các loại kháng sinh bao gồm cả các kháng sinh mạnh nhất hiện nay
như cephalosporin và carbapenem.
1.2.1.2. Phân loại đề kháng: Bao gồm đề kháng tự nhiên và đề kháng thu
được liên quan đến sự thay đổi nhiễm sắc thể của vi khuẩn hoặc do được truyền
các gen kháng kháng sinh nằm trên các plasmid.
1.2.1.3. Cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn: Có rất nhiều cơ chế tham
gia vào tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn bao gồm: thay đổi đích tác
động, tạo ra các enzyme phân huỷ kháng sinh, ngăn cản khả năng gắn vào tế
bào vi khuẩn và làm thay đổi đường chuyển hóa tạo ra các isoenzym.
1.3. Kháng sinh nhóm carbapenem: Kháng sinh thuộc nhóm carbapenem
có cấu trúc tương tự như penicillin nhưng nguyên tố lưu huỳnh được thay thể
bằng nguyên tố các bon ở vị trí 1 và có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn
kháng kháng sinh phổ rộng sinh enzym beta-lactamase.
1.3.1. Tình hình vi khuẩn kháng carbapenem trên thế giới
Kháng carbapenem do enzym carbapenemase nhóm A bao gồm
NmcA/IMI, SME, GES và KPC. Các enzym này có khả năng ly giải nhiều
loại kháng sinh nhóm beta-lactam. Tuy nhiên chỉ có KPC có tác động quan
trọng nhất trên lâm sàng, phát hiện lần đầu tiên trên chủng K. pneumoniae tại
Mỹ năm 1996 và đến năm 2004 khoảng 1/3 số chủng K. pneumoniae phân
lập tại Brooklyn-New York mang gen này. Hiện nay NKBV do K.
pneumoniae mang gen KPC được ghi nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới
như ở châu Âu và Nam Mỹ.
Kháng carbapenem do enzym nhóm B (metallo-beta-lactamases, MBL):
MBL được phát hiện lần đầu tiên trên B. cereus có khả năng ly giải hầu hết
các kháng sinh phổ rộng. Sau đó nhiều nghiên cứu đã phát hiện sự lây lan
nhanh chóng của các gen mã hóa MBLs sang nhiều loại vi khuẩn Gram âm
phân lập trên bệnh nhân NKBV ở nhiều quốc gia. Các enzym thường gặp
bao gồm IMP (phát hiện tại Nhật Bản, Trung Quốc và Hy Lạp), VIM (gây
các vụ dịch ở Nam Âu và Đài Loan) và enzym mới NDM-1 sẽ được trình
bày ở phần cuối của chương tổng quan.
Enzym nhóm D (OXA-type): OXA-48 được phát hiện lần đầu tại Thổ Nhĩ
Kỳ năm 2003, sau đó được phát hiện tại nhiều quốc gia ở châu Âu như Pháp,
Đức, Hà Lan. OXA-181 là một dạng đột biến của OXA-48 được phát hiện ở
Ấn Độ.
4
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận sự có mặt của
các chủng vi khuẩn gram âm kháng carbapenem. Tuy nhiên không thể thống
kê được tỷ lệ mắc do phần lớn các quốc gia đều không có các báo cáo đầy đủ
về mức độ nhạy cảm kháng sinh của loại vi khuẩn này. Sự lây lan và gia tăng
một cách nhanh chóng các vi khuẩn kháng carbapenem là mối đe dọa đến
công tác điều trị tại các bệnh viện.
1.3.2. Tình hình kháng carbapenem tại Việt Nam
Nhiều báo cáo cho thấy các vi khuẩn gram âm căn nguyên gây NKBV
thường gặp tại Việt Nam đã kháng lại kháng sinh ở mức độ cao. Theo báo
cáo ở 6 bệnh viện năm 2008 hai loại vi khuẩn là P. aeruginosa và A.
baumannii đã kháng lại carbapenem là 20% và 50%. Tuy nhiên các số liệu
này chưa đủ để đánh giá thực sự mức độ kháng carbapenem ở Việt Nam, do
không có các báo cáo đầy đủ về mức độ nhạy cảm kháng sinh của các vi
khuẩn.
1.4. Các kỹ thuật phát hiện vi khuẩn kháng carbapenem: khoanh giấy
kháng sinh khuếch tán, MIC và kỹ thuật E-test.
1.5. Kỹ thuật phát hiện vi khuẩn sinh carbapenemase: Hodge cải tiến, thử
nghiệm tính nhạy cảm của các enzym với EDTA (IMP-EDTA) và các kỹ
thuật sinh học phân tử: PCR, cloning và giải trình tự gen.
1.6. Các kỹ thuật sinh học phân tử nghiên cứu vi khuẩn kháng kháng
sinh: Kỹ thuật PCR, RAPD-PCR, PFGE, Ribotyping, RFLP và giải trình tự
gen và kỹ thuật phân tích plasmid mang gen kháng kháng sinh (plasmid-
typing, southern-blotting, giải trình tự plasmid và khả năng truyền plasmid).
1.7. Vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1
1.7.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
NDM-1 là enzym mới được Yong D và cộng sự công bố lần đầu tiên năm
2008 đã thu hút được sự quan tâm một cách mạnh mẽ của các nhà khoa học, các
chính trị gia và công chúng do các chủng vi khuẩn mang gen NDM-1 kháng
carbapenem là nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay và hiện chưa có kháng sinh
thay thế và gen NDM-1 có khả năng truyền nhanh chóng cho các loài vi khuẩn
thông qua các plasmid. Tại châu Âu từ 2008 đến 2010 có 13 quốc gia phát hiện
được 77 bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1. Hiện
nay nhiều quốc gia trên thế giới đã công bố sự có mặt của vi khuẩn mang gen
NDM-1 như Úc, Trung quốc và Mỹ.
Tại Anh độ tuổi mắc từ 2-87 tuổi và tỷ xuất về nam/nữ là 0,62. Có nhiều
loại vi khuẩn khác nhau mang gen NDM-1 như K. pneumonia, E. coli, và
Enterobacter spp.... Các yếu tố nguy cơ gây nhiễm các vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1 ở châu Âu bao gồm: tiền sử điều trị ở Ấn Độ và
Pakistan hoặc nằm điều trị tại khoa có bệnh nhân có tiền sử điều trị tại Ấn Độ.
Tại Ấn Độ và Pakistan nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 có
5
xu hướng xảy ra ở cộng đồng và lây lan qua đường lây truyền phân-miệng và đã
được minh chứng sự tồn tại của vi khuẩn mang gen NDM-1 trong môi trường
của thủ đô New Delhi-Ấn Độ và các vi khuẩn có gen NDM-1 trong phân ở
Pakistan. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nhiễm vi khuẩn mang gen NDM-
1 tương tự như các bệnh nhân nhiễm các vi khuẩn kháng kháng sinh nhóm
carbapenem do các enzyme khác.
Nhiều kỹ thuật sinh học phân tử đã được áp dụng để phân tích các đặc tính
của vi khuẩn mang gen NDM-1 cho thấy: nhiều loại plasmid mang gen NDM-1
có khả năng truyền cho vi khuẩn khác loài và đã chứng minh sự lây truyền của
các chủng K. pneumoniae ra các thành phố của Ấn Độ và sang Anh.
1.7.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đây là vấn đề mới chưa có nghiên cứu nào về NDM-1 được công bố
tại Việt Nam. Các nghiên chỉ bắt đầu được tiến hành sau công bố thứ 2 về
NDM-1 trên tạp chí lancet vào cuối năm 2010. Hiện nay các nhóm nghiên
cứu về NDM-1 đã cùng hợp tác nghiên cứu với đầu mối là viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương nhằm xác định tỷ lệ mắc, đặc điểm lâm sàng, phác đồ
điều trị bệnh nhân NKBV với vi khuẩn mang gen NDM-1. Các yếu tố
nguy cơ, vấn đề ô nhiễm trong môi trường, người lành mang vi khuẩn
kháng carbapenem mang gen NDM-1, các đặc điểm sinh học phân tử, qua
đó dự đoán nguồn gốc, khả năng lây lan và đề xuất các biện pháp phòng
chống sự lây lan của vi khuẩn này.
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Việt Đức-Hà Nội
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Dịch tễ học mô tả và phân tích
2.3. Thời gian nghiên cứu: Mục tiêu 1 (8/2010 đến 12/2011). Mục tiêu 2 (7
đến 12/2011). Và mục tiêu 3 (1/1/2012 đến 30/6/2013)
2.4. Đối tượng nghiên cứu
2.4.1 Đối tượng nghiên cứu mục tiêu 1: Bệnh nhân NKBV kháng
carbapenem mang gen NDM-1được xác định bằng PCR và giải trình tự gen.
Đối tượng nghiên cứu cho nghiên cứu bệnh chứng: Ca bệnh (bệnh nhân
nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1). Ca chứng (1 ca bệnh
sẽ chọn 2 ca chứng là bệnh nhân có kết quả âm tính với vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1 đứng sau bệnh nhân nhiễm vi khuẩn mang
gen NDM-1 trong danh sách nghiên cứu và không phân biệt tuổi, giới.
2.4.2. Đối tượng nghiên cứu mục tiêu 2: Mặt bàn, bề mặt sàn buồng bệnh,
bề mặt giường bệnh, nhà vệ sinh, tủ cá nhân, máy hút đờm dãi, rác thải y tế...
2.4.3. Đối tượng nghiên cứu mục tiêu 3: Các chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1 phân lập được tại mục tiêu 1-2.
2.5. Cỡ mẫu Nghiên cứu
6
2.5.1. Cỡ mẫu mục tiêu 1:
- Cỡ mẫu nghiên cứu cho mô tả đặc điểm dịch tễ học: Toàn bộ 240 bệnh
nhân nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem phát hiện trong nghiên cứu.
- Cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh chứng: Ca bệnh: toàn bộ 35 bệnh nhân phát
hiện nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1. Ca chứng: Áp
dụng tỷ lệ 1 ca bệnh 2 ca chứng.
2.5.2. Cỡ mẫu mục tiêu 2: Chọn mẫu không xác suất 200 mẫu tại các vị trí
khác nhau của 3 khoa: Phẫu thuật Tiết Niệu, Gan mật và Tiêu hóa.
2.5.3. Cỡ mẫu mục tiêu 3: Cỡ mẫu toàn bộ, bao gồm tất cả các chủng vi
khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 phân lập trong nghiên cứu.
2.6. Lấy mẫu bệnh phẩm và kỹ thuật xét nghiệm
2.6.1. Lấy mẫu bệnh phẩm
- Bệnh phẩm mục tiêu 1: Các ca bệnh được chẩn đoán trên lâm sàng bị
NKBV sẽ được lấy mẫu tại các vị trí nghi nhiễm khuẩn để làm xét nghiệm
xác định các vi khuẩn gây NKBV theo thường qui của khoa Vi sinh bệnh
viện Việt Đức.
- Bệnh phẩm mục tiêu 2: Dùng tăm bông vô trùng quét lên bề mặt của các
vị trí lấy mẫu trong nghiên cứu, cho tăm bông vào các ống thu thập mẫu.
- Mẫu cho mục tiêu 3: Các chủng vi khuẩn mang gen NDM-1.
2.6.2. Kỹ thuật xét nghiệm
2.6.2.1. Xác định bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1
- Phân lập vi khuẩn NKBV theo thường qui của bệnh viện Việt Đức.
- PCR và giải trình tự gen NDM-1 (theo Yong D và cộng sự). Sử dụng các
đoạn mồi: Kp-ndm1-F: 5’-ttcgacccagccattggcggcga-3’ và Kp-ndm1-R:
5’-atgcacccggtcgcgaagctgag-3’
- Xác định vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 tại môi trường:
Tăng sinh bệnh phẩm trong canh thang LB-imipenem. Cấy chuyển sang
đĩa thạch MacConkey có kháng sinh imipenem. Chọn 5-7 khuẩn lạc. Làm
PCR phát hiện gen NDM-1 và định danh vi khuẩn bằng API-20E.
- Đánh giá mức độ nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn bằng kỹ thuật MIC
dựa tiêu chuẩn CLSI, 2010.
- Phân tích đặc điểm sinh học phân tử các chủng vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1: Khả năng sinh enzym NDM-1 bằng bộ
kít - của hãng Eiken Co., Tokyo-Nhật Bản (theo qui trình của Wachino, J và
cộng sự) và MBL E-test (AB bioMerieux- Nc). Phân tích mối liên hệ kiểu
gen bằng kỹ thuật PFGE, phát hiện plasmid mang gen NDM-1 bằng kỹ
thuật Southern-Blotting và khả năng truyền plasmid theo phương pháp
của Karamunsary và cộng sự. Giải trình tự plasmid mang gen NDM-1.
7
2.8. Chỉ tiêu nghiên cứu
2.8.1. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Tỷ lệ NKBV với các vi khuẩn
kháng carbapenem mang gen NDM-1. Các loại vi khuẩn và mức độ nhạy
cảm với kháng sinh của vi khuẩn mang gen NDM-1. Thông tin về nhân khẩu
học (tuổi, giới, nghề nghiệp, lý do vào viện và tiền sử điều trị...). Các phẫu
thuật đã thực hiện, diễn biến lâm sàng, các thủ thuật can thiệp, các bệnh kèm
theo... Tình trạng sử dụng kháng sinh trước và trong thời gian nằm viện ....
2.8.2. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Mặt bàn, bề mặt sàn buồng bệnh,
bề mặt giường bệnh, khu nhà vệ sinh và rác thải y tế..., Tỷ lệ số mẫu dương
tính với vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1.
2.8.3. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 3: Kiểu gen vi khuẩn mang gen
NDM-1. Số lượng plasmid, khả năng truyền và trình tự các plasmid mang gen
NDM-1.
2.9. Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin theo phiếu điều
tra được thiết kế.
2.10. Quản lý và phân tích số liệu: Phần mềm exel và SPSS 21.0 (SPSS:
An IBM Company). DNA-Blast, Bionumeric- 6.5 và Inter plasmid
Analyzing tool được sử dụng phân tích các đặc tính sinh học phân tử.
2.12. Đạo đức nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức,
viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương phê duyệt.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện
do vi khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1.
3.1.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Hình 3.1. Tỷ lệ bệnh nhân
nhiễm vi khuẩn kháng
carbapenem/tổng số bệnh
nhân nhiễm khuẩn
Hình 3.2. Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm
vi khuẩn mang gen NDM-1 trên
số bệnh nhân nhiễm vi khuẩn
kháng carbapenem
Trong tổng số 6841 bệnh nhân NKBV, nghiên cứu đã xác định được 240
(3,51%) bệnh nhân NKBV với các vi khuẩn gram âm kháng carbapenem (hình 3.1).
8
35/240 (14,58%) bệnh nhân được phát hiện bị nhiễm vi khuẩn kháng
carbapenm mang gen NDM-1 (hình 3.2). Có 5.7% (2/35) bệnh nhân tại khoa
phẫu thuật Tiết niệu bị nhiễm khuẩn với 2 loại vi khuẩn (C. freundii và
Enterobacter spp; Enterobacter spp. và P. rettgeri) kháng carbapenem mang
gen NDM-1. Các bệnh nhân dương tính đều không có tiền sử đi nước ngoài,
hoặc tiếp xúc hay điều trị cùng với các bệnh nhân người nước ngoài.
3.1.2. Tỷ lệ phân bố bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1 theo tuổi và giới
Hình 3.4. Tỷ lệ bệnh nhân
nhiễm vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-
1 theo giới (n=35)
Hình 3.5. Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm
vi khuẩn kháng carbapenem
mang gen NDM-1 theo nhóm tuổi
(n=35)
Nam giới có tỷ lệ phát hiện vi khuẩn mang gen NDM-1 cao hơn nữ giới, lần
lượt là 31 (88,6%) và 4 (11,4%) (hình 3.4). Và nhóm tuổi 60-69; >70 và 50-
59 tuổi có tỷ lệ phát hiện cao so với các nhóm tuổi khác (hình 3.5).
Bảng 3.4. Phân bố 35 ca bệnh bị nhiễm vi khuẩn mang gen NDM-1 theo
khoa
Khoa điều trị Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ %
Phẫu thuật Tiết niệu 19 54,3
Phẫu thuật Nhiễm khuẩn 4 11,43
Hồi sức 3 8,58
Phẫu thuật Cấp cứu bụng 2 5,72
Phẫu thuật Chấn thương chỉnh
hình
2 5,72
Phẫu thuật Gan mật 1 2,85
Điều trị tự nguyện 1 2,85
Phẫu thuật Tim mạch 1 2,85
Thận lọc máu 1 2,85
Phẫu thuật Hàm mặt và Tạo
hình
1 2,85
Khoa phẫu thuật Tiết niệu có tỷ lệ phát hiện cao nhất 19/35 (54,3%) bệnh
nhân. Khoa phẫu thuật Nhiễm khuẩn 4 (11,43%), khoa hồi sức 3 bệnh nhân
9
(8,58%). Các khoa còn lại phát hiện mỗi khoa 1-2 bệnh nhân nhiễm vi khuẩn
kháng carbapenem mang gen NDM-1.
Hình 3.6. Phân bố các ca bệnh nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1 đầu tiên tại các khoa điều trị theo thời gian
Ngày 17/8/2010 bệnh nhân đầu tiên phát hiện nhiễm vi khuẩn kháng
carbapenem mang gen NDM-1 tại khoa Chấn thương chỉnh hình, ngày
21/8/2010 khoa phẫu thuật Tiết niệu và đến 26/8/2011 tại khoa phẫu thuật
Hàm mặt và Tạo hình nâng tổng số khoa phát hiện có bệnh nhân nhiễm vi
khuẩn kháng carbapenem mang gen NDM-1 là 10 khoa.
Hình 3.7. Phân bố các ca bệnh nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang
gen NDM-1 theo tháng (n=35)
Tỷ lệ phát hiện bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng carbapenem mang gen
NDM-1 cao nhất vào tháng 11/2010 (6 bệnh nhân), tháng 12/2010 (5 bệnh
nhân) các tháng 8/2010 và 8/2011 (4 bệnh nhân). Tuy nhiên tháng 2 đến
tháng 4/2011 không phát hiện được các ca bệnh nào (hình 3.7).
20/35 (57,14%) bệnh nhân dương tính vào viện điều trị các bệnh liên
quan đến đường tiết niệu. Các bệnh nhân nhiễm vi khuẩn mang gen NDM-1
10
có các triệu chứng lâm sàng điển hình của các NKBV. Một có bệnh cảnh lâm
sàng nặng do đa chấn thương và nhiễm khuẩn huyết. Một trường hợp tử
vong do nhiễm khuẩn huyết kèm gãy cổ xương đùi, các trường hợp còn lại
sau khi điều trị hết nhiễm khuẩn và ra viện.
3.1.3. Một số yếu tố nguy cơ nhiễm vi khuẩn mang gen NDM-1
Bảng 3.5. Một số yế