Khi nói về màu trắng của da người, trắng hồng, trắng tươi. được xem là
những từ biểu thị thái độ đánh giá tích cực trong khi trắng hếu, trắng bệch,
trắng nhởn. biểu thị điều ngược lại. Bằng chứng là trắng hồng, trắng tươi.
không thể dùng để chê và trắng hếu, trắng bệch. không thể dùng để khen làn
da của một người nào đó. Như vậy, rõ ràng trong tiếng Việt tồn tại những sự
biểu đạt tốt nghĩa (ameliorative) và xấu nghĩa (pejorative).
Tốt nghĩa và xấu nghĩa được giới ngôn ngữ học quan tâm dưới nhiều
phương diện, có thể là dưới quan điểm ngôn ngữ học lịch đại hay ngôn ngữ
học đồng đại, cũng có thể là dưới cái nhìn ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp
học, hay ngữ dụng học.
292 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tốt nghĩa và xấu nghĩa trong Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
TĂNG THỊ TUYẾT MAI
TỐT NGHĨA VÀ XẤU NGHĨA
TRONG TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG DŨNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Dũng đã
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn quý thầy cô, gia đình và bạn bè đã hỗ trợ tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
TP. Hồ Chí Minh - 2010
Tăng Thị Tuyết Mai
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh - 2010
Tăng Thị Tuyết Mai
BẢNG QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
1. Quy ƣớc về tài liệu trích dẫn
Số thứ tự (tương ứng với số thứ tự ở phần Tài liệu tham khảo) và số
trang của tài liệu trích dẫn được đặt trong dấu ngoặc vuông [] và ngăn cách
nhau bằng dấu phẩy (,). Nếu đoạn trích dẫn gồm nhiều trang liên tục thì giữa
trang đầu và trang cuối có ghi thêm dấu gạch ngang (-), ví dụ [5,2-11]; nếu
đoạn trích dẫn gồm nhiều trang không liên tục thì giữa các trang này có chữ
“và” ở giữa, ví dụ[1,1 và 2].
2. Quy ƣớc về chú thích nghĩa của từ
Tất cả các định nghĩa không ghi nguồn trong luận văn đều được trích từ
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 2002).
Cách viết của các từ cũng được sao từ tài liệu này.
3. Quy ƣớc viết tắt
%: Tỉ lệ phần trăm
DK: Danh từ khối
DTĐV: Danh từ đơn vị
DTĐVCL: Danh từ đơn vị chất liệu
DTĐVKCL: Danh từ đơn vị không chất liệu
KNKH: Khả năng kết hợp
NC: Ngữ cảnh
SL: Số lượng
STNN: Sắc thái ngữ nghĩa
T: Tốt nghĩa
TH - Xấu: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa trung hoà và xấu nghĩa
TH: Trung hoà về nghĩa
THX: Khả năng kết hợp với yếu tố trung hoà về nghĩa và xấu nghĩa
Tốt - TH - Xấu: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa tốt nghĩa, trung hoà và xấu
nghĩa
Tốt - TH: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa
Tốt - Xấu: Sắc thái ngữ nghĩa giao thoa giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa
TTH: Khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa và trung hoà về nghĩa
TTHX: Khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa, trung hoà và xấu nghĩa
TX: Khả năng kết hợp với yếu tố tốt nghĩa và xấu nghĩa
VTTT: Vị từ trạng thái
X: Xấu nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Khi nói về màu trắng của da người, trắng hồng, trắng tươi... được xem là
những từ biểu thị thái độ đánh giá tích cực trong khi trắng hếu, trắng bệch,
trắng nhởn... biểu thị điều ngược lại. Bằng chứng là trắng hồng, trắng tươi...
không thể dùng để chê và trắng hếu, trắng bệch... không thể dùng để khen làn
da của một người nào đó. Như vậy, rõ ràng trong tiếng Việt tồn tại những sự
biểu đạt tốt nghĩa (ameliorative) và xấu nghĩa (pejorative).
Tốt nghĩa và xấu nghĩa được giới ngôn ngữ học quan tâm dưới nhiều
phương diện, có thể là dưới quan điểm ngôn ngữ học lịch đại hay ngôn ngữ
học đồng đại, cũng có thể là dưới cái nhìn ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp
học, hay ngữ dụng học.
Trong tiếng Việt, nghiên cứu hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa hứa hẹn
nhiều điều thú vị, đặc biệt là trong sự thể hiện của các danh từ đơn vị (DTĐV)
và các vị từ trạng thái (VTTT) bởi vì theo đánh giá của chúng tôi, so với các
loại đơn vị từ vựng khác, hai loại đơn vị này có sự biểu hiện phức tạp hơn cả
về sắc thái ngữ nghĩa (STNN) theo từng loạt ngữ cảnh mà chúng xuất hiện.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi sẽ đề cập đến tốt nghĩa và xấu
nghĩa ở hai loại đơn vị từ vựng đã nêu dưới quan điểm ngôn ngữ học đồng
đại, dưới góc độ ngữ nghĩa học từ vựng để có thể có một hình dung tương đối
khái quát về STNN của các đơn vị từ vựng này trong tiếng Việt.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tốt nghĩa và xấu nghĩa là những khái niệm không xa lạ trong giới ngôn
ngữ học. Chúng thường được chú ý dưới dạng danh từ: sự biến đổi tốt nghĩa
(amelioration) và sự biến đổi xấu nghĩa (pejoration).
2
Nói đến sự biến đổi tốt nghĩa và sự biến đổi xấu nghĩa, trước hết là nói
đến những quá trình chuyển nghĩa mang tính chất lịch đại. Trong các công
trình nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử, các tác giả thường đề cập đến hai quá
trình này khi bàn về sự biến đổi ngữ nghĩa (semantic change). Hầu như không
một công trình nào bàn về ngôn ngữ học lịch sử lại không bàn về quá trình
chuyển nghĩa, và nếu đã bàn về quá trình này thì nhất định sẽ không bỏ qua
quá trình biến đổi tốt nghĩa và biến đổi xấu nghĩa dưới hai dạng thức: mở
rộng và thu hẹp nghĩa. Chúng ta có thể nhận ra điều này qua các công trình
nghiên cứu theo quan điểm lịch đại: Introduction to Historical Linguistics
(1972) của Anthony Arlotto, Historical Linguistics (1979) của Theodora
Bynon, Historical Linguistics: An Introduction (1992) của Winfred Lehmann,
Understanding Language Change (1994) của April M. S. McMahon, An
Introduction to Historical Linguistics (1997) của Terry Crowley, Language
History - An Introduction (2000) của Andrew L. Sihler, An Approach to
Semantic Change (2003) của Brian D. Joseph and Richard D. Janda
Về sự biến đổi xấu nghĩa, April M.S. McMahon đã lấy một ví dụ tiếng
Pháp maitresse (bà chủ nhà), từng có nghĩa là “cô dâu”. Tương tự, sely
(thiêng liêng) đã biến đổi nghĩa thành “ngớ ngẩn”, và từ tiếng Pháp crétin đã
chuyển nghĩa từ “sùng đạo Cơ Đốc” thành “ngu ngốc”. Tác giả cũng đã lấy từ
tiếng Anh cổ cniht làm ví dụ cho sự biến đổi tốt nghĩa. Nghĩa gốc của nó là
“người hầu”, nhưng tiếng Anh hiện đại có nghĩa là “hiệp sĩ”.
Tốt nghĩa và xấu nghĩa mang tính phổ quát cho mọi ngôn ngữ chứ không
giới hạn ở một ngôn ngữ nào. Có lẽ vì vậy mà vấn đề này được nghiên cứu
trong một phạm vi rộng ở nhiều ngôn ngữ: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha,
tiếng Nga, tiếng Italia... Trong công trình A History of the Spanish Language
(2002), Ralph Penny có bàn về những hậu tố xấu nghĩa trong tiếng Tây Ban
Nha kèm theo những ví dụ rất thú vị. Chẳng hạn hậu tố -aco trong những từ
3
libraco (cuốn sách cũ mục nát), pajarraco (con chim xấu xí) hay hậu tố -
ajo trong từ cintajo (dải ruy băng loè loẹt), trapajo (giẻ rách) John J.
Kinder và Vincenzo M. Savini trong Using Italian: A Guide to Contemporary
Usage cũng đã đề cập đến những hậu tố xấu nghĩa tiếng Italia. Chẳng hạn như
hậu tố -accio (hay -azzo) trong những từ libraccio (cuốn sách dở tệ),
ragazzaccio (cậu bé thô lỗ), coltellaccio (con dao lớn nguy hiểm)
Nhìn chung, khi bàn về tốt nghĩa và xấu nghĩa, các tác giả chủ yếu xem
xét chúng như một phần của quá trình chuyển nghĩa dưới quan điểm của ngôn
ngữ học lịch đại.
Trong tiếng Việt, hầu như chưa có công trình nào tập trung bàn về vấn
đề này. Đáng kể nhất là các công trình của Nguyễn Ngọc Trâm [65], Chu
Bích Thu [11] và Nguyễn Thị Bảo [74].
Khi đi sâu tìm hiểu bản chất ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị tâm lí - tình
cảm trong tiếng Việt, Nguyễn Ngọc Trâm đã đề cập đến tính chất tích
cực/tiêu cực của chúng. Luận án mô tả cấu trúc ngữ nghĩa điển hình của 19
nhóm vị từ tâm lí - tình cảm cơ bản của tiếng Việt (vui - buồn, tự hào - xấu
hổ, thoả mãn, chán, giận, tiếc, thương, thích). Chẳng hạn, nhóm vị từ vui -
buồn được tác giả mô tả như sau:
Trạng thái tâm lí - tình cảm tích cực/tiêu cực
Cho rằng sự việc xảy ra phù hợp/không phù hợp với yêu cầu,
nguyện vọng của mình.
Có thể nói, công trình của Nguyễn Ngọc Trâm khai thác một cách hiệu
quả bản chất ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm vị từ tâm lí - tình cảm tiếng
Việt, trong đó có chú ý đến thành phần đánh giá, một trong những thành phần
ngữ nghĩa quan trọng của loại đơn vị này.
Cũng như Nguyễn Ngọc Trâm, Chu Bích Thu đặc biệt chú ý khai thác
thành phần đánh giá khi nghiên cứu ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại.
4
Tác giả chỉ ra hai bộ phận trong cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt: bộ
phận miêu tả và bộ phận đánh giá.
Theo Chu Bích Thu, nghĩa của các tính từ kiểu như đẹp, xấu, hay, dở
có thể được phân tích:
Đẹp:
- Có hình thức
- Gây cảm giác dễ chịu
- Phù hợp với ý thích
Hay:
- Có âm thanh, kỹ thuật
- Gây cảm giác dễ chịu
- Phù hợp với ý thích
Và cấu trúc nghĩa của chúng có thể khái quát thành ba thành tố:
1. Có thuộc tính nào đó tác động vào giác quan
2. Gây cảm giác nào đó
3. Đánh giá tác động do cảm giác gây nên
Trong ba thành tố ngữ nghĩa trên, thành tố (1) biểu thị phạm trù thuộc
tính của bản thân sự vật (hoàn toàn mang tính chất khách quan); thành tố (2)
biểu thị phản ứng của con người trước tác động của thuộc tính sự vật (vừa
mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan) và thành tố (3) biểu thị thái
độ của con người đối với thuộc tính của sự vật qua sự tác động của thuộc tính
ấy vào giác quan của mình (hoàn toàn mang tính chất chủ quan).
Chu Bích Thu áp dụng quan điểm này một cách nhất quán khi miêu tả
đặc trưng ngữ nghĩa của các tính từ tiếng Việt tiêu biểu trong luận án của
mình.
Khi bàn về ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
(đối chiếu với tiếng Anh), Nguyễn Thị Bảo cũng đã xét đến tiêu chí tích cực,
5
tiêu cực, trung hoà về ngữ nghĩa và đưa ra những phân tích khá thú vị. Theo
tác giả, đa số từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đều
thiên về nghĩa tiêu cực, chẳng hạn như “bò”, “cáo”, “lợn”, “chó”, “vịt”,
“chuột”, “ếch”, “mèo”, “ốc”, “rắn”, “ruồi” Số lượng từ ngữ thiên về nghĩa
tích cực rất ít: “ngựa”, “phượng”, “rồng” Nghĩa tích cực, tiêu cực hay trung
hoà của các đơn vị này do văn hoá của mỗi dân tộc quy định.
Nhìn chung, mặc dù đã chú ý đến hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa
trong tiếng Việt như một thành phần quan trọng trong ngữ nghĩa của từ nhưng
các tác giả chỉ gói gọn vấn đề trong một phạm vi hẹp, chẳng hạn như trong
một nhóm từ mà thôi.
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tạm chưa khảo sát
hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt ở góc độ ngữ dụng học mà
chỉ xem xét ở góc độ ngữ nghĩa học từ vựng, trên quan điểm ngôn ngữ học
đồng đại, trong đó chú ý đến sự kết hợp của từ trong ngữ cảnh.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu STNN trong hai bộ phận từ loại cơ bản của tiếng
Việt: DTĐV và VTTT.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn của mình, người viết sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
1.4.1. Phương pháp phân tích phân bố
Đây là phương pháp vô cùng quan trọng trong việc xác định STNN của
các đơn vị từ vựng tiếng Việt. Thông qua các kết hợp của từ trong các loạt
6
ngữ cảnh khác nhau, chúng ta có thể nhận ra STNN chứa đựng trong từ cũng
như những biến đổi ngữ nghĩa (nếu có) qua các loạt ngữ cảnh nhất định.
1.4.2. Phương pháp thống kê ngôn ngữ
Luận văn sử dụng phương pháp này để thống kê số lượng các tiểu loại
DTĐV và VTTT dựa trên STNN tốt, xấu, trung hoà cũng như khả năng kết
hợp của chúng. Bên cạnh đó, việc khảo sát mối quan hệ giữa vỏ ngữ âm và
STNN của các yếu tố chỉ mức độ cao theo sau VTTT cũng cần đến phương
pháp này.
1.4.3. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ
Để thực hiện có hiệu quả đề tài này, vấn đề miêu tả ngữ nghĩa các đơn
vị, đặc biệt là các đơn vị có biểu hiện phức tạp về STNN là việc làm vô cùng
cần thiết. Vì vậy, phương pháp miêu tả ngôn ngữ cũng được chúng tôi lưu ý ở
đây.
1.4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Ở một vài luận điểm, luận văn có sử dụng phương pháp so sánh đối
chiếu để thấy sự tương đồng và khác biệt giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa trong
tiếng Việt và trong các ngôn ngữ khác.
1.5. Tƣ liệu nghiên cứu
Vì luận văn cần đến một số lượng ngữ cảnh đủ lớn để đảm bảo tính
chính xác cho việc xác lập các mức độ STNN của từng đơn vị từ vựng nên
việc thu thập tư liệu từ nhiều nguồn là vô cùng cần thiết.
Nguồn tư liệu chủ yếu là các loại từ điển (từ điển tiếng Việt, từ điển đồng
nghĩa tiếng Việt, từ điển từ láy, từ điển từ đồng nghĩa), trong đó Từ điển
tiếng Việt (2002) do tác giả Hoàng Phê chủ biên được xem là nguồn tư liệu
chính.
7
Các văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác nhau cũng được xem là
nguồn tư liệu quan trọng của luận văn.
1.6. Đóng góp của luận văn
1.6.1. Về mặt lý luận
Từ những tiền đề lý thuyết về ngữ cảnh, chúng tôi khái quát một phương
pháp phân tích STNN dựa trên ngữ cảnh nhằm xác lập STNN của các đơn vị
từ vựng tiếng Việt. Theo đó, phân loại và miêu tả STNN của hai bộ phận
DTĐV và VTTT tiếng Việt dựa theo phương pháp này là đóng góp chủ yếu
của luận văn.
1.6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn nghiên cứu hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong hai loại
đơn vị từ vựng tiếng Việt (DTĐV và VTTT) trên phương diện đồng đại, dưới
góc độ ngữ nghĩa học từ vựng, từ đó hình thành cái nhìn bao quát về STNN
của các đơn vị từ vựng này, giúp người bản ngữ hiểu rõ hơn ngôn ngữ mẹ đẻ
của mình đồng thời góp phần giúp học viên nước ngoài có thể dễ dàng hơn
khi sử dụng các đơn vị từ vựng vốn được xem là tinh tế và khó phân biệt
trong quá trình học tiếng Việt.
1.7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương.
Chƣơng một đề cập đến những vấn đề lý thuyết cơ bản như các thành phần
nghĩa, các phương pháp phân tích ngữ nghĩa, STNN của các đơn vị từ vựng,
từ đó đúc kết nên phương pháp nhận diện STNN trong các đơn vị từ vựng
tiếng Việt của luận văn. Dựa trên phương pháp nhận diện này, chƣơng hai
xác lập và miêu tả STNN của hai tiểu loại DTĐV tiếng Việt (DTĐVKCL và
DTĐVCL). Tương tự, chƣơng ba phân loại các VTTT tiếng Việt dựa trên
STNN của chúng kèm theo những miêu tả cụ thể. Bên cạnh đó, chương này
8
còn đề cập đến các vấn đề: 1. STNN của những từ láy xuất phát từ VTTT và
vai trò của các yếu tố cộng thêm vào VTTT trong những kết hợp này. 2. Mối
quan hệ giữa ngữ âm và STNN của những từ chỉ mức độ cao theo sau các
VTTT. 3. STNN của những kết hợp giữa một VTTT và một vị từ chỉ hướng
biểu thị một quá trình.
Ngoài 121 trang chính văn, luận văn dành 166 trang cho 4 phụ lục.
9
CHƢƠNG MỘT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Sắc thái ngữ nghĩa của các đơn vị từ vựng
1.1.1. Các thành phần nghĩa
Nghĩa từ vựng (lexical meaning) của một đơn vị từ vựng gồm ba thành
phần cơ bản: nghĩa miêu tả (descriptive meaning), nghĩa xã hội (social
meaning) và nghĩa biểu cảm (expressive meaning). Bên cạnh đó, người ta
thường hay nhắc đến một loại nghĩa được xem là loại nghĩa thêm vào - nghĩa
liên tưởng (connotation).
1.1.1.1. Nghĩa miêu tả và sự quy chiếu
Nhiều người cho rằng nghĩa miêu tả chỉ tồn tại đối với những thực từ.
Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Nếu nghĩa miêu tả của một thực từ
(content word) là “một khái niệm dành cho các vật quy chiếu tiềm năng của
nó”1 thì những từ chức năng như giới từ, liên từ hay những hình thức ngữ
pháp (đối với những ngôn ngữ biến hình) vẫn có nghĩa miêu tả, và ở đây,
nghĩa miêu tả chính là “đóng góp của chúng vào nghĩa miêu tả của câu”2.
Chẳng hạn, nghĩa miêu tả của từ mèo là một khái niệm dành cho tất cả
các con mèo, những con thú nhỏ cùng họ với hổ báo thường được nuôi trong
nhà để bắt chuột. Trong khi đó, nghĩa miêu tả của từ sẽ là một khái niệm
“biểu thị sự việc, hiện tượng nói đến xảy ra trong tương lai, sau thời điểm nói,
hoặc xảy ra trong thời gian sau thời điểm nào đó trong quá khứ được lấy làm
1
“The descriptive meaning of a content word is a concept for its potential referents.” [117,23]
2
“The descriptive meaning of a word or a grammatical form is its contribution to descriptive sentence
meaning” [117,24]
10
mốc.” Và từ này sẽ biểu hiện nghĩa miêu tả một cách cụ thể khi tham gia vào
các câu cụ thể.
Khi nhắc đến nghĩa miêu tả, người ta hay nhắc đến nghĩa sở thị
(denotation hay denotative meaning). Sự phân biệt nghĩa miêu tả và nghĩa sở
thị được Sebastian Lobner thể hiện qua sơ đồ hình tam giác trong công trình
của mình [117]. Theo đó, nghĩa sở thị không có quan hệ trực tiếp với từ mà
quan hệ gián tiếp thông qua nghĩa miêu tả. Nói cách khác, chính nghĩa miêu
tả đã quyết định nghĩa sở thị.
nghĩa biểu thị
quyết định
Một số tác giả xác định nghĩa sở thị trong quan hệ với nghĩa liên tưởng
như phần nghĩa hạt nhân, cơ bản của từ (phần nghĩa mà chúng ta có thể tìm
thấy trong từ điển) và phần nghĩa thêm vào.
1.1.1.2. Nghĩa xã hội và mối tương tác xã hội
Nghĩa xã hội được xem là một trong những thành phần nghĩa chính yếu
của nghĩa từ vựng song song với thành phần nghĩa miêu tả bên trên.
Phần nghĩa này được hiểu là tất cả những STNN do xã hội quy định,
nghĩa là tính chất phù hợp hay không phù hợp với các chuẩn đạo đức, văn
hoá của xã hội.
Chẳng hạn, mặc dù cùng có chung một nghĩa miêu tả, nhưng hai từ phu
Thực từ
Nghĩa miêu tả
Một khái niệm
Nghĩa sở thị
Một phạm trù
11
nhân và vợ lại có nghĩa xã hội rất khác nhau. Từ phu nhân chỉ dùng để chỉ vợ
của những người có địa vị cao trong xã hội. Không ai dùng phu nhân để nói
về vợ của một người bình thường, trừ khi có một hàm ý khác (trêu đùa, mỉa
mai) bởi vì khi dùng từ phu nhân, tức là đã giả định sự trang trọng.
Nghĩa xã hội không chỉ xuất hiện trong các thực từ mà còn có mặt cả
trong các hư từ. Chẳng hạn, các trợ từ à, ư, nhỉ, nhé chỉ dùng trong các
trường hợp biểu hiện sự thân mật. Vì thế, những phát ngôn kiểu như: “Tình
hình có vẻ rất nghiêm trọng, thủ tướng nhỉ?” khó được chấp nhận khi xuất
phát từ người nói có địa vị xã hội thấp hơn thủ tướng.
Tuy nhiên, nghĩa xã hội có được xem là một phần nghĩa nằm trong nghĩa
từ vựng hay không vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Phần lớn các tác giả quy
phần nghĩa này về phong cách chức năng, nghĩa là một vấn đề thuộc tu từ
học.
1.1.1.3. Nghĩa biểu cảm và tính chủ quan
Bất cứ một sự biểu đạt nào cũng bao hàm trong đó tình cảm, quan điểm,
thái độ của con người. Chẳng hạn, từ xanh lè không chỉ đơn thuần biểu thị
màu sắc của sự vật mà còn thể hiện sự đánh giá (hàm ý chê) của người nói.
Thật vậy, với câu “Chiếc áo này màu xanh lè.”, ai cũng hiểu rằng người nói
đang thể hiện thái độ đánh giá tiêu cực về màu sắc của chiếc áo.
Cũng như nghĩa miêu tả, nghĩa biểu cảm là một phần của nghĩa từ vựng,
một phẩm chất ngữ nghĩa của từ và ngữ không phụ thuộc vào ngữ cảnh.
Phần nghĩa biểu cảm được hiểu là tất cả những STNN do cảm xúc con
người quy định, nghĩa là tính chất phù hợp hay không phù hợp với cảm xúc
con người. Phần nghĩa này do tính chủ quan của con người quy định, nhưng
nó có một mẫu số chung tương đối giữa các cá nhân.
Nghĩa biểu cảm có một vị trí khá quan trọng trong nghĩa của từ. Nếu
12
một cặp từ có nghĩa sở thị đồng nhất thì phần nghĩa biểu cảm sẽ quyết định
ngữ cảnh xuất hiện của từ. Một ví dụ điển hình là các DTĐV đồng nhất về
nghĩa sở thị trang, đấng, vị, tên, thằng Những từ này đều có cùng nghĩa sở
thị là chỉ cá thể người, nhưng chúng khác nhau ở phần nghĩa biểu cảm. Nếu
trang, đấng, vị bao hàm thái độ, tình cảm trân trọng thì tên, thằng lại bao
hàm thái độ, tình cảm coi khinh. Trong trường hợp này, chính nghĩa biểu cảm
đã quyết định sự có mặt hay không của từng từ trong từng ngữ cảnh.
1.1.1.4. Nghĩa liên tưởng và sự liên tưởng
Nếu như ba thành phần nghĩa kể trên được xem là những thành phần
chính yếu trong nghĩa từ vựng của từ thì nghĩa liên tưởng chỉ được xem là
phần nghĩa thêm vào.
Mikko Lehtonen [116,74] cho rằng nghĩa đầu tiên của từ chính là nghĩa
sở thị trong khi đó nghĩa liên tưởng được hiểu là một số phẩm chất (những
ngữ cảnh và hành vi cảm xúc) liên quan đến sở chỉ của từ. Ronald Carter,
Angela Goddad, Danuta Reah, Keith Sanger & Maggie Bowing [103,102]
cũng cho rằng nghĩa liên tưởng của từ là phần nghĩa thuộc về cá nhân, cảm
xúc; còn nghĩa sở thị là phần nghĩa trong từ điển. Sebastian Lobner [117] thì
lại phân biệt rất rõ nghĩa liên tưởng với những thành phần nghĩa từ vựng cơ
bản. Nó không thể là nghĩa miêu tả hay nghĩa biểu cảm vì nó có thể thay đổi
theo