1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ thế kỷ XX, “dân chủ” trở thành khái niệm phổ biến nhất của nhân loại và “dân chủ” luôn được các nhà lý luận và hoạt động chính trị- xã hội quan tâm và đề cập. Ngày nay, không có một tổ chức, phong trào chính trị- xã hội hay một luận thuyết triết học chính trị nào lại không đề cập đến vấn đề dân chủ mà không sử dụng thuật ngữ này trong mục đích cương lĩnh hành động của mình.
Trong số các giá trị lớn của nhân loại, dân chủ là một hiện tượng chính trị- pháp lý phức tạp đầy mâu thuẫn. Nó phản ánh một nhu cầu cơ bản xuyên suốt lịch sử, đặc biệt ngày càng tăng trong đời sống xã hội hiện tại. Tính phức tạp của dân chủ được quy định, trước hết bởi nó là nhu cầu của con người với tính cách loài, mặt khác, trong quá trình phát triển, dân chủ luôn là nhu cầu, phương tiện của các giai cấp, tập đoàn xã hội nào đó nhằm xác lập đặc quyền (đối với giai cấp thống trị), hoặc là đấu tranh xác lập mặt bằng về quyền (đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác).
Lịch sử dân chủ cho thấy, để đạt tới những giá trị chung, phổ biến, dân chủ gắn liền và phát triển thông qua các nền dân chủ với tên gọi và giai cấp đại diện khác nhau (dân chủ cổ đại gắn liền với việc xuất hiện Nhà nước Aten vào thế kỷ V trước công nguyên, dân chủ của chủ nghĩa tự do cổ điển vào cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, nền dân chủ đa số của Rút- xô, nền dân chủ XHCN kế thừa và chọn lọc những nguyên tắc quan trọng nhất của dân chủ tập thể của Rút- xô, nền dân chủ đa nguyên hiện đại của các nước tư bản phát triển).
Cũng như nhân quyền, dân chủ là một khái niệm đầy mâu thuẫn: vừa bao hàm giái trị chung, phổ biến đồng thời vừa chứa đựng những yếu tố đặc quyền, mang tính giai cấp. Quá trình phát triển dân chủ, về thực chất là quá trình đấu tranh, hạn chế dần sự đặc quyền, từ dân chủ ít phổ biến đến những hình thức dân chủ phổ biến hơn. Chính vì vậy, dân chủ là khái niệm gắn liền với nhà nước và quyền lực nhà nước, không thể nói đến dân chủ tách rời, bên ngoài vấn đề nhà nước.
Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, trong một bài viết ngày 14.10.1949 đã khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều nơi dân”.
Nghị quyết của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt nam như một thành tựu của tư duy đổi mới trở lại với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã khẳng định:”Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”.
Do đó, ở nước ta việc vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng. Xây dựng môi trường thực thi và phát triển dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với một nước có trình độ kinh tế thấp kém dựa trên nền nông nghiệp nhỏ và lạc hậu, lại chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản như nước ta.
Chỉ có trong môi trường dân chủ, chỉ khi nào quyền tự do dân chủ của người dân được giải phóng thì những sức mạnh và năng lực sáng tạo của họ mới được phát huy. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn [12, tr.249].
Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, đã thể hiện được rõ vai trò của mình trong việc làm cho nền dân chủ từng bước khởi sắc. Dân chủ trong kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Dân chủ về chính trị có những bước tiến quan trọng, trong đó phải kể đến quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai thực hiện tạo chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội
Tuy nhiên, bộ máy nhà nước hiện nay hoạt động còn kém hiệu quả, ý thức trách nhiệm của nhiều cán bộ công quyền chưa cao, nạn hách dịch, cửa quyền gây nhiều phiền hà và nhiều biểu hiện khác vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tệ quan liêu, nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Từ những hạn chế trên, nhà nước cần phải thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc bảo đảm quyền lực của nhân dân, thông qua việc nghiên cứu tìm tòi những hình thức và cơ chế, thể chế hoá đầy đủ các quyền tự do dân chủ, tạo điều kiện và khả năng cho nhân dân tham gia thiết thực vào xây dựng và quản lý nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhà nước ta phải thể hiện đúng bản chất của mình là nhà nước của dân, do dân, vì dân; xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo theo mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: "Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, những nội dung liên quan đến vấn đề nhà nước và dân chủ đã được nhiều tác giả đề cập thông qua các công trình nghiên cứu, các luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, các sách báo. tiêu biểu qua một số tác phẩm sau đây:
* Các luận văn thạc sĩ:
- Thực chất của quá trình dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Văn Vĩnh (1993).
- Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tác giả Mai Thị Minh Ngọc (2003).
* Luận văn tiến sĩ:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đỗ Trung Hiếu (2002).
* Các loại sách, báo, tạp chí:
- Văn hoá pháp lý quá trình dân chủ hoá, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 4/1991 của tác giả Trần Ngọc Đường.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, 4/1992 của tác giả Đỗ NguyênPhương và Trần Ngọc Đường.
- Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 10/2000 của tác giả Trần Hậu Thành.
- Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 3/2002 của tác giả Đỗ Trung Hiếu.
Như vậy, cho đến nay đa phần các nội dung, các khía cạnh của vấn đề nhà nước và dân chủ đã được bàn tới, song luận văn chỉ nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước trong việc thực hiện và phát huy dân chủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của nhà nước trong việc thực thi quyền dân chủ trong lịch sử thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên đây, các nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
Thứ nhất, làm rõ vai trò của nhà nước đối với việc thực thi dân chủ trong lịch sử thế giới.
Thứ hai, làm rõ vai trò của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ, phân tích thực trạng tình hình thực thi dân chủ, tìm ra nguyên nhân những mặt làm được và những thiếu sót cần phải khắc phục.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc thực thi dân chủ phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khai thác vai trò của nhà nước trong việc thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay dưới góc độ triết học.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ cũng như vai trò của nhà nước trong việc thực thi dân chủ.
- Trên cơ sở phương pháp luận triết học mácxít, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp,phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp so sánh, quy nạp để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân hạn chế về thực thi dân chủ sẽ đề xuất một số giải pháp cho vấn đề thực hiện dân chủ ở nước ta trong tình hình mới hiện nay.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn nhằm nâng cao nhận thức cho tác giả về vấn đề dân chủ và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện vấn đề này.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho các công tác nghiên cứu và giảng dạy.
108 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2693 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----------------------
Nguyễn Lơng Luyện
Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngời hớng dẫn khoa học: TS HOÀNG HẢI BẰNG
HÀ NỘI - 2006
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ thế kỷ XX, “dân chủ” trở thành khái niệm phổ biến nhất của nhân loại và “dân chủ” luôn được các nhà lý luận và hoạt động chính trị- xã hội quan tâm và đề cập. Ngày nay, không có một tổ chức, phong trào chính trị- xã hội hay một luận thuyết triết học chính trị nào lại không đề cập đến vấn đề dân chủ mà không sử dụng thuật ngữ này trong mục đích cương lĩnh hành động của mình.
Trong số các giá trị lớn của nhân loại, dân chủ là một hiện tượng chính trị- pháp lý phức tạp đầy mâu thuẫn. Nó phản ánh một nhu cầu cơ bản xuyên suốt lịch sử, đặc biệt ngày càng tăng trong đời sống xã hội hiện tại. Tính phức tạp của dân chủ được quy định, trước hết bởi nó là nhu cầu của con người với tính cách loài, mặt khác, trong quá trình phát triển, dân chủ luôn là nhu cầu, phương tiện của các giai cấp, tập đoàn xã hội nào đó nhằm xác lập đặc quyền (đối với giai cấp thống trị), hoặc là đấu tranh xác lập mặt bằng về quyền (đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác).
Lịch sử dân chủ cho thấy, để đạt tới những giá trị chung, phổ biến, dân chủ gắn liền và phát triển thông qua các nền dân chủ với tên gọi và giai cấp đại diện khác nhau (dân chủ cổ đại gắn liền với việc xuất hiện Nhà nước Aten vào thế kỷ V trước công nguyên, dân chủ của chủ nghĩa tự do cổ điển vào cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, nền dân chủ đa số của Rút- xô, nền dân chủ XHCN kế thừa và chọn lọc những nguyên tắc quan trọng nhất của dân chủ tập thể của Rút- xô, nền dân chủ đa nguyên hiện đại của các nước tư bản phát triển).
Cũng như nhân quyền, dân chủ là một khái niệm đầy mâu thuẫn: vừa bao hàm giái trị chung, phổ biến đồng thời vừa chứa đựng những yếu tố đặc quyền, mang tính giai cấp. Quá trình phát triển dân chủ, về thực chất là quá trình đấu tranh, hạn chế dần sự đặc quyền, từ dân chủ ít phổ biến đến những hình thức dân chủ phổ biến hơn. Chính vì vậy, dân chủ là khái niệm gắn liền với nhà nước và quyền lực nhà nước, không thể nói đến dân chủ tách rời, bên ngoài vấn đề nhà nước.
Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, trong một bài viết ngày 14.10.1949 đã khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều nơi dân”.
Nghị quyết của Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt nam như một thành tựu của tư duy đổi mới trở lại với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã khẳng định:”Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”.
Do đó, ở nước ta việc vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng. Xây dựng môi trường thực thi và phát triển dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với một nước có trình độ kinh tế thấp kém dựa trên nền nông nghiệp nhỏ và lạc hậu, lại chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản như nước ta.
Chỉ có trong môi trường dân chủ, chỉ khi nào quyền tự do dân chủ của người dân được giải phóng thì những sức mạnh và năng lực sáng tạo của họ mới được phát huy. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn [12, tr.249].
Nhà nước ta từ khi ra đời đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, đã thể hiện được rõ vai trò của mình trong việc làm cho nền dân chủ từng bước khởi sắc. Dân chủ trong kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động mạnh mẽ đến việc giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Dân chủ về chính trị có những bước tiến quan trọng, trong đó phải kể đến quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai thực hiện tạo chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội…
Tuy nhiên, bộ máy nhà nước hiện nay hoạt động còn kém hiệu quả, ý thức trách nhiệm của nhiều cán bộ công quyền chưa cao, nạn hách dịch, cửa quyền gây nhiều phiền hà và nhiều biểu hiện khác vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tệ quan liêu, nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Từ những hạn chế trên, nhà nước cần phải thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc bảo đảm quyền lực của nhân dân, thông qua việc nghiên cứu tìm tòi những hình thức và cơ chế, thể chế hoá đầy đủ các quyền tự do dân chủ, tạo điều kiện và khả năng cho nhân dân tham gia thiết thực vào xây dựng và quản lý nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nhà nước ta phải thể hiện đúng bản chất của mình là nhà nước của dân, do dân, vì dân; xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo theo mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: "Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, những nội dung liên quan đến vấn đề nhà nước và dân chủ đã được nhiều tác giả đề cập thông qua các công trình nghiên cứu, các luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, các sách báo... tiêu biểu qua một số tác phẩm sau đây:
* Các luận văn thạc sĩ:
- Thực chất của quá trình dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Văn Vĩnh (1993).
- Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tác giả Mai Thị Minh Ngọc (2003).
* Luận văn tiến sĩ:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đỗ Trung Hiếu (2002).
* Các loại sách, báo, tạp chí:
- Văn hoá pháp lý quá trình dân chủ hoá, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 4/1991 của tác giả Trần Ngọc Đường.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, 4/1992 của tác giả Đỗ NguyênPhương và Trần Ngọc Đường.
- Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 10/2000 của tác giả Trần Hậu Thành.
- Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 3/2002 của tác giả Đỗ Trung Hiếu...
Như vậy, cho đến nay đa phần các nội dung, các khía cạnh của vấn đề nhà nước và dân chủ đã được bàn tới, song luận văn chỉ nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước trong việc thực hiện và phát huy dân chủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của nhà nước trong việc thực thi quyền dân chủ trong lịch sử thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên đây, các nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
Thứ nhất, làm rõ vai trò của nhà nước đối với việc thực thi dân chủ trong lịch sử thế giới.
Thứ hai, làm rõ vai trò của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc thực hiện dân chủ, phân tích thực trạng tình hình thực thi dân chủ, tìm ra nguyên nhân những mặt làm được và những thiếu sót cần phải khắc phục.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc thực thi dân chủ phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khai thác vai trò của nhà nước trong việc thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay dưới góc độ triết học.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân chủ cũng như vai trò của nhà nước trong việc thực thi dân chủ.
- Trên cơ sở phương pháp luận triết học mácxít, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp,phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp so sánh, quy nạp để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân hạn chế về thực thi dân chủ sẽ đề xuất một số giải pháp cho vấn đề thực hiện dân chủ ở nước ta trong tình hình mới hiện nay.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn nhằm nâng cao nhận thức cho tác giả về vấn đề dân chủ và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện vấn đề này.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho các công tác nghiên cứu và giảng dạy.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1. DÂN CHỦ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ
1.1. DÂN CHỦ - KHÁI NIỆM VÀ TIỀN ĐỀ
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Tư tưởng về dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại, bắt đầu phát triển khi xã hội có giai cấp và có hiện tượng áp bức bóc lột giữa các giai cấp đồng thời xuất hiện nhà nước. Tư tưởng dân chủ đã phản ánh khát vọng quyền được sống, được đối xử bình đẳng của đông đảo quần chúng bị áp bức. Nhưng hầu hết những cuộc đấu tranh đó đều thất bại, và do thất bại trong hiện thực, quần chúng lao động mơ tưởng đến một xã hội "hoàng kim" đã qua của họ, đó là xã hội cộng sản nguyên thủy. Những người nô lệ đã mơ ước trở lại thời kỳ cộng sản nguyên thủy, vì ở đó, họ được làm chủ cộng đồng, xã hội của mình. Những nhà tư tưởng ở Hy Lạp thời cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì dân phải có quyền lực mạnh nhất và cao nhất. Từ đó đã xuất hiện khái niệm dân chủ, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Những tư tưởng dân chủ thời cổ đại đã được thể hiện trong nhà nước dân chủ chủ nô Aten. Tuy nhiên, những tư tưởng dân chủ thời kỳ này cũng còn nhiều hạn chế.
Sau khi nhà nước dân chủ chủ nô Aten bị tan vỡ, chế độ phong kiến được xác lập. Mọi thành tựu của nhà nước Aten bị xoá bỏ và thay vào đó là những giáo lý khắc nghiệt trói buộc cuộc sống con người cũng như kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì lẽ đó, "chế độ phong kiến là đêm trường Trung cổ" đối với các nước ở châu Âu.
Từ nửa sau thế kỷ XIV, trong lòng xã hội phong kiến đã xuất hiện những mầm mống của chủ nghĩa tư bản, cùng với nó là sự hình thành từng bước của giai cấp tư sản - đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ.
Để chuẩn bị cho cách mạng tư sản, từ nửa sau thế kỷ XIV, đến hết thế kỷ XVI, ở Tây Âu đã nổi lên một phong trào văn hoá mới, sôi động, rầm rộ và có ý nghĩa to lớn. Đó là phong trào văn hoá Phục hưng. Thực chất, đây là một cuộc đấu tranh vừa ôn hoà vừa quyết liệt trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng của giai cấp tư sản nhằm chống lại giai cấp phong kiến và Giáo hội. Phục hưng có nghĩa là khôi phục, phát triển những tinh hoa của nền văn hoá cổ đại Hy-La trong điều kiện lịch sử mới.
Tư tưởng chủ đạo của phong trào văn hoá Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn - tức là ý tưởng đề cao con người, quyền con người (đặc biệt là quyền tự do cá nhân), ca ngợi các vẻ đẹp thân thể, trí tuệ, ý chí của con người. Đây cũng chính là nội dung của vấn đề dân chủ thời kỳ này.
Sự hạn chế của vấn đề dân chủ trong văn hoá Phục hưng là ở chỗ, mặc dù văn hoá Phục hưng đề cao giá trị con người và quyền con người, nhưng con người ở đây chỉ là con người tư sản chứ không phải con người nói chung trong đó bao hàm con người lao động. Họ đề cao giá trị của con người nhưng lại ủng hộ sự bóc lột để làm giầu.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào văn hoá Phục hưng đã bị chế độ phong kiến chống lại quyết liệt, những nhà văn hoá phục hưng bị đàn áp bởi chính quyền phong kiến và các toà án dị giáo. Sở dĩ có tình hình này là do giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ chế độ phong kiến; giai cấp tư sản lúc này mới hình thành, mới bước vào con đường đấu tranh nên chưa có kinh nghiệm để thắng nổi một chế độ chính trị chưa đến mức suy tàn như chế độ phong kiến lúc đó. Mặt khác, phong trào Phục hưng tuy phát triển và tiến bộ nhưng chưa gây được ảnh hưởng lớn trong phong trào quần chúng nhân dân lao động.
Đến giữa thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, vấn đề dân chủ lại tiếp tục được các nhà tư tưởng tư sản quan tâm. Từ giữa thế kỷ XVIII và nhất là trong nhiều năm của thế kỷ XVIIII, các nhà tư tưởng tư sản tiên tiến đã liên tiếp tấn công vào thành trì quân chủ chuyên chế bằng những học thuyết mới, tiến bộ và cách mạng. Không phải ngẫu nhiên khi lịch sử gọi thế kỷ XVIII là thế kỷ "Khai sáng" và trào lưu tư tưởng đó là trào lưu tư tưởng "Khai sáng".
Thành tựu dân chủ trong trào lưu tư tưởng "Khai sáng" này gắn liền với những nội dung, tư tưởng tiến bộ, dân chủ và nhân đạo trong các học thuyết của những đại diện xuất sắc thuộc trào lưu triết học ánh sáng như: Jăng Miliê, Sác Luy Môngtexkiơ, Vônte, Giăng Giắc Rútxô.
Các nhà tư tưởng tư sản đã tiếp tục xây dựng, phát triển, hướng tới hoàn thiện ý niệm về dân chủ trong đó có sự bình đẳng cho mọi người kể cả nông dân và nô lệ. Đặc biệt, các nhà tư tưởng tư sản thời kỳ này đã xác định vai trò của quản lý nhân dân trong lịch sử phát triển của một quốc gia. Những thành tựu này chính là sự kế thừa, phát huy cao độ tư tưởng dân chủ trong thời kỳ văn hoá Phục hưng.
- Tư tưởng dân chủ của Sác luy Môngtexkiơ:
Xuất thân từ một gia đình quý tộc tư pháp, đã từng làm Chủ tịch nghị hội (khi đó là cơ quan tư pháp) ở Boócđô nên Môngtexkiơ hiểu biết rất rõ hệ thống cai trị và thực chất của chế độ chuyên chế từ Trung ương cho đến địa phương.
Trong các tác phẩm "Những lá thư Ba Tư" (1721) "Khảo sát về sự lớn mạnh và suy tàn của La Mã" (1734), và đặc biệt là cuốn "Tinh thần pháp luật" (1748), ông đã thể hiện những tư tưởng dân chủ của mình. Nghiên cứu các chế độ chính trị, ông phân biệt 3 loại tổ chức nhà nước: độc tài, quân chủ lập hiến và cộng hoà. Môngtexkiơ lên án chế độ độc tài là tàn bạo và cho rằng chế độ cộng hoà là tốt đẹp, nhưng trong thực tế không thực hiện được. Theo ông, chế độ chính trị tốt nhất là nhà nước quân chủ lập hiến giống như nước Anh.
Chống lại nền quân chủ chuyên chế tập trung mọi quyền lực vào tay vua, nguyên tắc tổ chức quyền lực "Tam quyền phân lập" của Môngtexkiơ là hết sức tiến bộ với lập luận rằng phân quyền và hạn chế quyền hành là những bảo đảm chủ yếu của tự do. Vì thế quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải triệt để độc lập, phân lập với nhau nhưng mặt khác cũng phải kiềm chế lẫn nhau. "Lấy quyền lực hạn chế quyền lực". Tổ chức các cơ quan quyền lực theo nguyên tắc này đã hạn chế được quyền lực tập trung quá nhiều trong tay một người hoặc một nhóm người từ đó dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, vi phạm pháp luật. Tất cả mọi người trong xã hội từ người có địa vị cao nhất đến người có địa vị thấp nhất đều phải tuân theo pháp luật, dù là điều nhỏ nhất. Rõ ràng đây là một quan điểm hết sức tiến bộ không chỉ vào thời kỳ đó.
- Tư tưởng dân chủ của Vônte:
Vônte sinh trưởng trong một gia đình giàu có, là người đại diện xuất sắc nhất của trào lưu triết học Pháp thế kỷ XVIII, trong các tác phẩm của mình, đặc biệt trong "Những lá thư triết học", ông đã thể hiện tư tưởng dân chủ của mình một cách rõ nét: ông kịch liệt lên án tính chất dã man, tàn bạo, phản động và lạc hậu của chế độ chuyên chế ở Pháp và của nhà thờ Thiên chúa giáo. Bằng giọng văn châm biếm chua cay và sâu sắc, ông đã phê phán kịch liệt tính chất thối nát của xã hội đương thời. Những tư tưởng tiến bộ, đậm tính dân chủ của Vônte, một mặt khiến ông trở thành kẻ thù không đội trời chung với chế độ độc tài phong kiến và nhà thờ Thiên chúa, nhiều lần bị bắt giam vào ngục Baxđi; mặt khác, đưa ông lên vị trí vô cùng quan trọng trong trào lưu triết học "Khai sáng".
- Tư tưởng dân chủ của Giăng Giắc Rut-xô:
Giăng Giắc Rút-xô (1712 - 1778) là người đại diện xuất sắc cho tư tưởng dân chủ cách mạng trong thời kỳ Khai sáng.
Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm nổi tiếng như "Luận về khoa học nghệ thuật", "Luận về nguồn gốc và cơ sở của sự bất bình đẳng", "Khế ước xã hội", "Emilơ". Giá trị và ảnh hưởng của các tác phẩm này không phải chỉ thu hẹp trong phạm vi một áng văn hay, một nghệ thuật điêu luyện mà là ở quan điểm xã hội và chính trị tiến bộ của ông. Rút-xô đã nói lên quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, đặc biệt là của nông dân và tiểu tư sản.
Trong khi lên án chế độ phong kiến chuyên chế, Rut-xô lên tiếng phê phán chế độ tư hữu và những quan hệ xã hội do chế độ đó sinh ra, ông cho rằng sự bất bình đẳng là hậu quả của chế độ tư hữu và kêu gọi mọi người đều phải bình đẳng. Ông vạch ra rằng, nhà nước khi đó phục vụ cho bọn có của để chống lại những người không có của bằng những thủ đoạn tàn ác và dã man. Tuy vậy, Rut-xô không chủ trương tiêu diệt toàn bộ chế độ tư hữu vì theo ông việc đó không thể thực hiện được, ông chủ trương điều hoà chế độ tư hữu, chuyển từ chế độ đại sở hữu sang tiểu tư hữu. Trên cơ sở đó nếu không diệt trừ tận gốc cái xấu xa của xã hội thì cũng có thể giảm bớt đến mức tối thiểu những sự bất bình đẳng.
Điểm nổi bật nhất trong quan niệm chính trị của Rút- xô là vấn đề chế độ nhà nước.Trong khi Môngtexkiơ tin tưởng vào nhà nước quân chủ lập hiến, Vônte và Đi-đơ-rô trông chờ vào một vị "minh quân" thì Rut-xô chủ trương thiết lập một nhà nước cộng hoà, trong đó bảo đảm hoàn toàn chủ quyền của nhân dân, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng và tư hữu tài sản. Đó là một chính quyền cộng hoà cấp tiến nhất, triệt để nhất và cũng lý tưởng nhất.
Trong "Khế ước xã hội" ông đã trình bày chi tiết về một chính quyền nhân dân. Khái niệm nhân dân mà ông đề cập đến là những người lao động sản xuất nhỏ, là nông dân, là tiểu chủ, thợ thủ công... những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, họ chiếm đa số trong xã hội. Như vậy, nền dân chủ của Rut-xô là nền dân chủ của đa số, là dân chủ thực sự của nhân dân. Mặc dù còn những điểm hạn chế, nhưng với những tư tưởng tiến bộ nêu trên, Rut-xô vẫn được coi là nhà cách mạng dân chủ xuất sắc nhất.
Những tư tưởng dân chủ trong bản "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ và bản "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp là sự tiếp nối các tư tưởng của các nhà khai sáng.
- Tư tưởng dân chủ của C.Mác:
Với sự phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu có phê phán thành tựu lý luận của những người đi trước, khái quát lịch sử phát triển của dân chủ, C.Mác đã trình bày một cách khoa học về dân chủ.
Lý luận dân chủ gắn liền với học thuyết nhà nước của C.Mác và chủ nghĩa Mác nói chung. Sự hình thành và phát triển lý luận dân chủ không tách rời sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là học thuyết của C.Mác về nhà nước. Vì vậy, nghiên cứu những tư tưởng lý luận dân chủ của C.Mác phải đặt trong quan hệ với học thuyết nhà nước. Ngược lại khi nghiên cứu về nhà nước, không thể không nói đến dân chủ.
Vấn đề trung tâm của lý luận dân chủ mácxít là vấn đề con người, là tư tưởng xây dựng một "vương quốc tự do" của con người. C.Mác là người kế thừa, phát triển tư tưởng nhân đạo, tư tưởng XHCN đã có từ trước. Điều khác căn bản là C.Mác đã đem lại cho tư tưởng đó một cơ sở khoa học, giải thoát nó khỏi những ảo ảnh và những dự định viển vông.
Trong tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen" viết năm 1843, C.Mác đã nêu lên những quan niệm về bản chất của chế độ dân chủ khi so sánh với chế độ quân chủ. C.Mác viết:
Chế độ dân chủ là nội dung và hình thức. Chế độ quân chủ dường như chỉ là hình thức, nhưng trong thực tế thì nó xuyên tạc nội dung. Dưới chế độ quân chủ, tổng thể, tức nhân dân, bị đặt vào một trong những phương thức tồn tại của họ, tức chế độ chính trị của