Luận văn Văn hóa ứng xử người việt trong truyện thơ Nôm

Ngày nay, khi mà các quốc gia đều đặt sự quan tâm hàng đầu cho việc phát triển kinh tế và khoa học kĩ thuật thì việc thiếu hiểu biết về văn hóa đang trở thành một một nguy cơ nghiêm trọng. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại đang được coi là một trong những vấn đề ưu tiên quốc tế. Văn hóa “ngày hôm qua chỉ là một thứ trang trí, thì hôm nay là nền tảng và linh hồn của cuộc phiêu lưu của con người. Trước kia, người ta coi văn hóa là thứ yếu, ngày nay, người ta bắt đầu nhận ra nó là cốt lõi của vấn đề. Vì vậy, ngày nay cần có một cách tiếp cận mới với phát triển, cách tiếp cận ấy cuối cùng sẽ thừa nhận vai trò quyết định của văn hóa” [65, tr.35]. Nhu cầu về sự hoàn thiện cuộc sống cho hôm nay và cho ngày mai buộc con người phải nhìn nhận lại vai trò của các thành tố của tổng thể xã hội, từ đó, dẫn đến việc cần đánh giá lại vai trò của văn hóa như một thành tố quan trọng và trực tiếp đối với sự phát triển. Một khi toàn bộ sự phát triển của xã hội và cá nhân mỗi con người được đặt trong quỹ đạo của định hướng văn hóa thì bản thân văn hóa sẽ đóng vai trò như hệ điều tiết thường trực và tự giác của cuộc sống và sự phát triển. Nhất là đối với nước ta, một nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa, có nhu cầu bức bách trong việc tiếp thu thành tựu văn hóa thế giới đồng thời với việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đang trên đà hội nhập với văn hóa thế giới cho nên nhu cầu nhìn lại mình để là chính mình và để “làm bạn với toàn thế giới” là rất quan trọng. Muốn vậy, yếu tố quan trọng trước tiên không thể không nhắc tới chính là con người Việt Nam

pdf115 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2328 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa ứng xử người việt trong truyện thơ Nôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ____________________ TRIỆU THÙY DƯƠNG VĂN HểA ỨNG XỬ NGƯỜI VIỆT TRONG TRUYỆN THƠ NễM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lấ THU YẾN Thành phố Hồ Chớ Minh – 2007 MễÛ ẹAÀU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, khi mà các quốc gia đều đặt sự quan tâm hàng đầu cho việc phát triển kinh tế và khoa học kĩ thuật thì việc thiếu hiểu biết về văn hóa đang trở thành một một nguy cơ nghiêm trọng. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại đang được coi là một trong những vấn đề ưu tiên quốc tế. Văn hóa “ngày hôm qua chỉ là một thứ trang trí, thì hôm nay là nền tảng và linh hồn của cuộc phiêu lưu của con người. Trước kia, người ta coi văn hóa là thứ yếu, ngày nay, người ta bắt đầu nhận ra nó là cốt lõi của vấn đề. Vì vậy, ngày nay cần có một cách tiếp cận mới với phát triển, cách tiếp cận ấy cuối cùng sẽ thừa nhận vai trò quyết định của văn hóa” [65, tr.35]. Nhu cầu về sự hoàn thiện cuộc sống cho hôm nay và cho ngày mai buộc con người phải nhìn nhận lại vai trò của các thành tố của tổng thể xã hội, từ đó, dẫn đến việc cần đánh giá lại vai trò của văn hóa như một thành tố quan trọng và trực tiếp đối với sự phát triển. Một khi toàn bộ sự phát triển của xã hội và cá nhân mỗi con người được đặt trong quỹ đạo của định hướng văn hóa thì bản thân văn hóa sẽ đóng vai trò như hệ điều tiết thường trực và tự giác của cuộc sống và sự phát triển. Nhất là đối với nước ta, một nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa, có nhu cầu bức bách trong việc tiếp thu thành tựu văn hóa thế giới đồng thời với việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đang trên đà hội nhập với văn hóa thế giới cho nên nhu cầu nhìn lại mình để là chính mình và để “làm bạn với toàn thế giới” là rất quan trọng. Muốn vậy, yếu tố quan trọng trước tiên không thể không nhắc tới chính là con người Việt Nam. Với tư cách là chủ thể, đồng thời là “vật mang” văn hóa, con người hoạt động, tác động đến môi trường xung quanh dựa trên những chuẩn thức văn hóa được thừa hưởng từ truyền thống và giáo dục. Trong kỉ nguyên toàn cầu hóa và thông tin hóa như hiện nay, tầm quan trọng của yếu tố văn hóa không ngừng tăng lên. Đặc biệt, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của sự chú ý. Những năm gần đây, văn kiện của Đảng và nhà nước Việt Nam nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng tỏ rằng sự phát triển văn hóa của các dân tộc trên thế giới là rất đa dạng và phong phú. Sự đa dạng về văn hóa là một hiện tượng phổ biến bởi nếu mục đích tối thượng của con người là no đủ, hạnh phúc cho mọi người thì những quan niệm, những phương pháp đạt tới, những biểu hiện của mỗi dân tộc là khác nhau. Do vậy, tôn trọng sự phong phú, đa dạng của các nền văn hóa trong thời đại ngày nay là biểu hiện lí tưởng cao cả của chủ nghĩa nhân văn cho con người và vì con người. Tôn trọng tính đa dạng trong sự phát triển và bảo tồn văn hóa nhân loại chính là cơ sở để mỗi dân tộc tìm về bản sắc văn hóa của chính mình, ở đó có một hệ thống các giá trị tinh hoa của dân tộc được vun đắp nên bởi lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, là quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa để bổ sung, hoàn thiện những giá trị mới, gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời làm cho làm cho những giá trị bền vững được tồn tại sống động với thực tiễn xã hội. Văn hóa của bất kì dân tộc nào trong quá trình hình thành và phát triển đều tồn tại hai cơ chế: cơ chế thứ nhất có liên quan tới sự phát triển nội sinh của chính nền văn hóa dân tộc đó (văn hóa bản địa), đó là sự chọn lọc, duy trì, phát triển và lưu truyền những giá trị văn hóa đích thực qua các thời kì khác nhau của lịch sử, chúng được xem là tinh hoa của nền văn hóa dân tộc. Cơ chế thứ hai liên quan tới quá trình giao lưu giữa văn hóa bản địa với văn hóa khu vực và thế giới (giao lưu văn hóa). Đó là sự hội nhập, dung hòa có tính cưỡng bức hoặc tự nguyện những giá trị văn hóa của các dân tộc khác vào giá trị văn hóa của dân tộc mình. Đó có thể là quá trình bổ sung, làm phong phú thêm vốn văn hóa bản địa nhưng cũng có thể là quá trình làm tàn lụi một nền văn hóa này trước sự thâm nhập, thôn tính của một nền văn hóa khác. Do đó, muốn duy trì và phát triển nền văn hóa của mình, mỗi dân tộc, bên cạnh sự hội nhập văn hóa phải có được ý thức giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp chứa đựng bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Đó là những giá trị văn hóa quý báu, là tinh hoa văn hóa của một dân tộc được lựa chọn, bảo tồn, duy trì và phát triển qua các thời kì lịch sử, giúp chúng ta phân định rõ cái riêng, cái độc đáo của một nền văn hóa. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một thời kì mới cho đất nước vượt qua thời kì khủng hoảng để bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc . Đất nước ta bước vào một thời kì mới: mở cửa giao lưu và dùng con đường công nghiệp hóa - hiện địa hóa để đưa đất nước vươn đến mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển đất nước theo đường lối “văn hóa soi đường cho kiến quốc” (Hồ Chí Minh), Đảng ta nhanh chóng nhận ra rằng cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, khoa học, kĩ thuật, công nghệ với việc bảo tồn, phát huy nội lực văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Điều này đã được minh chứng bằng việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã dành hẳn Hội nghị Trung ương khóa VIII để bàn về văn hóa trong tình hình mới. Nội dung chiến lược trong Nghị quyết của Hội nghị là “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” [9, tr.7]. Bên cạnh đó, Đảng ta đã xác định chiến lược văn hóa là chiến lược xây dựng con người Việt Nam, xây dựng nhân cách Việt Nam. Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã nhận định: “Nói đến văn hóa là phải nói đến con người, mà nói đến con người trước hết phải nói đến tình cảm, tư tưởng, tâm lí, tư duy, chính trị Đó là cốt lõi của văn hóa. Lịch sử văn hóa là lịch sử con người và loài người. Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người” [84, tr.188]. Cùng lẽ đó, hiện nay, người ta còn quan tâm đến một biểu hiện hết sức đáng quan tâm của văn hóa, cái thể hiện trực tiếp thái độ của con người, đó là ứng xử, ứng xử có văn hóa và ở mức độ tinh tuyển: văn hóa ứng xử của con người. Đã là con người mang tính nhân loại phổ biến thì ai cũng phải quan tâm đến mối quan hệ, thái độ ứng xử với những vấn đề lớn như: giữa người với người, với gia đình, xã hội, với tự nhiên Dĩ nhiên, ứng xử văn hóa ở mỗi cộng đồng tộc người có những yếu tố đồng nhất và khác biệt. Người Việt ứng xử khác với người Mường, Mông, Tày, Thái trong tín ngưỡng, tình cảm, quan hệ gia đình, hôn nhân, đời sống vật chất Điều này đã được chứng minh rất rõ trong thực tiễn văn hóa ứng xử phong phú và sinh động của mỗi dân tộc. Vậy nên, ứng xử văn hóa là một vấn đề có nội hàm rộng và phức tạp, do đó, việc tìm hiểu văn hóa ứng xử của người Việt cũng gặp khó khăn bởi sự mở rộng và phức tạp của vấn đề, từ khái niệm đến thực tiễn. Với mong muốn khẳng định hành trang không thể thiếu được của người Việt trên con đường văn hóa hiện tại chính là truyền thống ứng xử xã hội, truyền thống văn hóa ứng xử đã được kết tinh từ đời sống văn hóa cổ truyền từ rất lâu đời nên chúng tôi quyết tâm đi tìm những nét văn hóa ứng xử của người Việt trong văn học trung đại, đặc biệt là trong các truyện thơ Nôm, là một cách để khẳng định văn hóa ứng xử đồng thời cũng là một vấn đề có tính chất cốt lõi, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ người Việt sau này. 2. Lịch sử vấn đề Cách đây hơn sáu mươi năm, Đào Duy Anh đã đặt viên gạch đầu tiên cho lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Việt Nam khi cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” của ông được Quan Hải Tùng Thư ấn hành (năm 1938). Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa các vùng miền, văn hóa các dân tộc của các tác giả nổi tiếng như : Trần Quốc Vượng, Toan AÙnh, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm Có thể kể đến Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam AÙ (GS. Đinh Gia Khánh), Khái niệm và quan niệm về văn hóa (TS. Đỗ Văn Khang), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới (GS. Phan Ngọc), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển Việt Nam hiện nay (GS. Vũ Khiêu và GS. Phạm Xuân Nam), Văn hóa và phát triển (GS. Trường Lưu), Xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta hiện nay (GS.TS. Nguyễn Duy Quý và GS.PTS Đỗ Huy) Chúng tôi nhận thấy có khá nhiều các công trình nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt như: - Văn hóa giao tiếp của Phạm Vũ Dũng (1996). - Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam do PGS.TS Lê Như Hoa chủ biên (2002). - Nghệ thuật ứng xử của người Việt của tác giả Phan Minh Thảo (2003) - Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt của TS. La Văn Quán (2007) Tất cả các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu các đặc trưng giao tiếp ứng xử trong môi trường gia đình, xã hội và ứng xử với tự nhiên của người Việt, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu và thực sự đầy đủ về văn hóa ứng xử của người Việt qua văn học. Gần với đề tài luận văn quan tâm có công trình: “Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc bộ qua một số ca dao - tục ngữ” của Trần Thúy Anh, giảng viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội. ở công trình này, tác giả Trần Thúy Anh nghiên cứu truyền thống ứng xử xã hội của người Việt trong cái nôi văn hóa châu thổ Bắc bộ được cô đọng và đúc kết qua ca dao và tục ngữ. Tác giả đã lấy ca dao và tục ngữ làm điểm tựa để từ đó, hình dung một cách sinh động và sâu sắc bộ mặt lịch sử, chiều sâu văn hóa và các sắc thái riêng biệt, kể cả những tiếp biến văn hóa của thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc bộ. Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến luận văn thạc sĩ Ngữ văn “Truyền thống văn hóa người Việt trong Truyện Kiều” của tác giả Đặng Văn Kim - Trường Đại học Sư Phạm Tp. HCM. Trong luận văn này, tác giả đã có sự so sánh, đối chiếu khá tỉ mỉ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Qua đó, tác giả đã cố gắng chỉ ra những nét có tính truyền thống của văn hóa Việt Nam, hệ thống lại những nét văn hóa có tính truyền thống của người Việt. Riêng về lĩnh vực nghiên cứu truyện thơ Nôm của người Việt, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều công trình như: - Truyện Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình thành và bản chất thể loại, luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của tác giả Kiều Thu Hoạch. - Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của tác giả Đặng Thanh Lê. - Ngôn ngữ nhân vật trong truyện Nôm, luận án phó tiến sĩ của tác giả Đinh Thị Khang. - Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học, luận án tiến sĩ Ngữ văn của tác giả Lê Thị Hồng Minh. - Hình tượng nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm tài tử giai nhân, luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của tác giả Nguyễn Thị Chiến. Hoặc các bài viết đăng trên tạp chí Văn học, Văn hóa dân gian như: Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm của Đặng Thanh Lê, Thi pháp truyện Nôm của Kiều Thu Hoạch, Thể tài tử giai nhân" trong truyện thơ Nôm Việt Nam của Trần Quang Huy, ảnh hưởng Phật giáo trong truyện Nôm Quan âm Thị Kính của Đinh Thị Khang, Truyện Kiều và văn hóa nghĩa tình Việt Nam của Lê Đình Kỵ. Trong các tác phẩm này, các tác giả chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu khía cạnh thể loại, ngôn ngữ và nhân vật của loại hình truyện thơ Nôm người Việt, chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề truyền thống văn hóa nói chung, hoặc văn hóa ứng xử của người Việt nói riêng. Trên đây, chúng tôi đã lược ghi lại một số công trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa ứng xử của người Việt và thể loại truyện Nôm. Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực chủ quan, chúng tôi rất lấy làm tiếc là chưa thể tiếp cận và thống kê đầy đủ các công trình nghiên cứu về văn hóa ứng xử của người Việt qua văn học đã được công bố. Vì vậy, trong khuôn khổ tài liệu nghiên cứu có được, chúng tôi rất trân trọng các quan điểm, những ý kiến mà các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quý giá ấy sẽ giúp chúng tôi có những định hướng đúng đắn về mặt phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn thành nhiệm vụ đã đặt ra của luận văn này. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt qua một số truyện thơ Nôm tiêu biểu thế kỉ XVIII - XIX nhằm tìm ra được ảnh hưởng của thế ứng xử với tư cách là quan niệm sống, lối sống, nếp sống, lối hành động của một cộng đồng người trong đời sống thực tế đến văn học. 4. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp của luận văn Luận văn dùng ca dao, tục ngữ làm điểm tựa để so sánh với một số truyện thơ Nôm tiêu biểu thế kỉ XVIII - XIX như truyện Lý Công, Thoại Khanh Châu Tuấn, truyện Phan Trần, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Phương Hoa, Truyện Hoa Tiên, Song Tinh, Sơ kính tân trang, Nhị Độ Mai, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên Từ đó, luận văn cố gắng chỉ ra và hệ thống những nét ứng xử tiêu biểu của người Việt đã thể hiện trong các tác phẩm truyện thơ cũng như đã trở thành chuẩn mực ứng xử trong đời sống. Từ mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cố gắng tìm hiểu thể loại truyện thơ Nôm của người Việt từ một góc nhìn mới: góc nhìn từ truyền thống văn hóa Việt. Tuy nhiên, trước giới hạn mênh mông của truyền thống văn hóa Việt, chúng tôi chỉ xin đi vào văn hóa ứng xử, là những nếp cư xử trong cuộc sống hàng ngày của ông cha ta đã đi vào truyện thơ Nôm. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi có ý thức tiếp thu cách làm văn hóa so sánh để có thể chỉ ra được đâu là nét văn hóa thuần Việt và đâu là những những ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh đến văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử người Việt. Chúng tôi hi vọng rằng luận văn sẽ cung cấp phần nào một cách nhìn mới về truyện thơ Nôm người Việt từ góc độ văn hóa ứng xử, cũng như những lí giải khá thú vị về văn hóa ứng xử người Việt qua thể loại này. Do dung lượng có hạn của luận văn và hạn chế về mặt sưu tập tài liệu nghiên cứu nên có thể chúng tôi chưa khái quát một cách trọn vẹn và hệ thống được đầy đủ văn hóa ứng xử của người Việt. Xin phép sẽ được trở lại trong một công trình nghiên cứu khác vào một thời điểm thích hợp. 5. Phương pháp nghiên cứu Do nghiên cứu về văn hóa ứng xử, nghĩa là tìm hiểu về những giá trị tướng đối ổn định của cộng đồng người Việt qua không gian và thời gian, nên chắc chắn luận văn phải sử dụng phương pháp lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa và văn học, chủ yếu là các thao tác thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được cấu tạo thành ba chương: - Chương 1: Truyện thơ Nôm Trong chương này, chúng tôi chủ yếu trình bày khái quát về sự ra đời và phát triển, các kiểu phân loại cũng như nội dung chính và hình thức nghệ thuật của thể loại truyện Nôm của người Việt. - Chương 2: Văn hóa và văn hóa ứng xử ở chương này, chúng tôi giới thiệu các khái niệm văn hóa, ứng xử, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp. Trong đó, chúng tôi cũng khái quát văn hóa ứng xử của người Việt và bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa ngoại sinh đến văn hóa bản địa. Đó là ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, từ đó lan tỏa ra thành những ứng xử trong môi trường xã hội, ứng xử giữa người với người. Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn chỉ ra được sự dung hòa của tín ngưỡng bản địa với tam giáo, chứng tỏ người Việt đã biến đổi một cách khéo léo những học thuyết triết học - tôn giáo của nước ngoài thành những quan niệm gần gũi với đời sống xã hội Việt Nam, và dùng nó như những quan niệm sống thiết thực, gần gũi, dễ hiểu và dễ ứng dụng. - Chương 3: Văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nôm. ở chương này, chúng tôi bước đầu tìm hiểu và giới thiệu khái quát các nét văn hóa ứng xử của người Việt tìm thấy được qua các truyện thơ Nôm theo các mối quan hệ chính của con người: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với gia đình. CHệễNG 1 TRUYEÄN THễ NOÂM 1.1. Sự ra đời và phát triển Truyện Nôm là một thể loại khá độc đáo của văn học dân tộc. Rất tiếc là cho đến nay chúng ta chưa khẳng định được nó ra đời từ lúc nào và hình thái đầu tiên của nó như thế nào. Trong kho tàng truyện Nôm còn lại hiện nay, có loại viết bằng thể thơ lục bát, có loại viết bằng thể thơ Đường luật. Theo Giáo sư Nguyễn Lộc [61], truyện Nôm Đường luật ra đời trước thế kỉ XVIII, từ thế kỉ XVIII trở đi không thấy có nữa. Còn truyện Nôm lục bát thì chưa rõ ra đời lúc nào, chỉ biết nó phát triển mạnh nhất trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Rất có thể truyện Nôm Đường luật ra đời trước truyện Nôm lục bát, nhưng dù điều đó có đúng đi chăng nữa thì vẫn không có nghĩa truyện Nôm Đường luật là hình thái đầu tiên của thể loại truyện Nôm. Chúng ta đều biết rằng trong nền văn học dân gian của ta, cả hai thể loại trữ tình và tự sự đều phát triển rất sớm, và trên nền tảng ấy, một hình thức tự sự có vần như thể loại vè cũng có thể ra đời từ lâu trong nền văn học dân tộc. Phải chăng tiền thân của thể loại truyện Nôm là ở trong văn học dân gian? Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học Việt Nam. Đây là loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng lớn, vì vậy cũng có ý kiến gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong trong đời sống tinh thần của người bình dân xưa. Giá trị của truyện thơ Nôm đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng yêu thích của quần chúng lao động ở nhiều thế hệ. Tuy nhiên, hiện tại, khi nghiên cứu bộ phận văn học này, chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết như: nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác của các tác phẩm truyện thơ Nôm. Tất nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã rất quan tâm và bước đầu cũng đã có được những ý kiến về các vấn đề trên, tuy tất cả mới dừng lại ở mức độ những giả thiết. Theo Giáo sư Đặng Thanh Lê [59, tr.50] “Sự ra đời của truyện Nôm bắt nguồn từ một yêu cầu phản ánh xã hội với những nội dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn của bản thân thời đại ấy”. Vào thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bộc lộ nhiều mặt mâu thuẫn với xu thế của thời đại và sự tiến triển của lịch sử dân tộc. Chế độ quân chủ chuyên chế quan liêu của triều Lê ngày càng tỏ ra bất lực trước hai mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc: mâu thuẫn giữa các phe phái phong kiến cầm quyền trong nội bộ giai cấp thống trị và mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân bị trị, chủ yếu là nông dân, với triều đình. Hệ quả tất yếu là vào đầu thế kỉ XVI, do sự bùng nổ của những mâu thuẫn đó, triều Lê đã sụp đổ. Nhà Mạc lên thay, lúc đầu tuy có những cố gắng nhất định, song rốt cuộc, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ quân chủ chuyên chế theo mô hình Nho giáo lỗi thời lại tiếp tục phát triển dẫn đến nạn chia cắt đất nước và nội chiến phong kiến (Trịnh - Mạc, Trịnh - Nguyễn) kéo dài hàng trăm năm, phá vỡ sự thống nhất đất nước, làm cho cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực, lầm than. Những cuộc nổi dậy của nông dân đã xuất hiện đây đó từ thế kỉ XVI, đến khoảng thế kỉ XVIII trở đi, những mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến ngày càng trở nên gay gắt và bùng nổ thành những cuộc khởi nghĩa nông dân
Luận văn liên quan