Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao
nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện
đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều
chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.
Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng tạo, trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam cùng với sự đoàn kết một lòng của cả dân tộc, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi
tốt đẹp, vị thế được nâng cao và đời sống của nhân dân thay đổi. Chúng ta đang trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực
hiện nền kinh tế thị trường XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá và đặc
biệt, đang hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực với khu vực, thế giới và toàn cầu. Trên con
đường đổi mới ấy, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta còn gặp không ít những khó khăn.
Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi
phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội và ngay
chính bản thân người phụ nữ đó cũng như sự phát triển bình thường của con cái họ.
Ngày nay, bạo lực gia đình là v ấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân
loại, để lai nhiều hậu quả cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Mặc dù LHQ và các nước
trên thế giới đã có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo lực gia đình và ban hành
nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình và hiện đã có 89 nước
trên thế giới có các quy định pháp luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình, trong đó có
60 nước có luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình; 7 nước có luật riêng về bạo lực
chống lại phụ nữ. nhưng ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn là nạn nhân của bạo lực gia
đình. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở
thành v ấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
126 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2414 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vi phạm phỏp luật phũng, chống bạo lực gia đỡnh đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vi phạm phỏp luật phũng, chống bạo
lực gia đỡnh đối với phụ nữ ở Việt
Nam hiện nay
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô
cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao
nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện
đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều
chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả.
Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng tạo, trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam cùng với sự đoàn kết một lòng của cả dân tộc, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi
tốt đẹp, vị thế được nâng cao và đời sống của nhân dân thay đổi. Chúng ta đang trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực
hiện nền kinh tế thị trường XHCN, mở rộng dân chủ xã hội, tăng cường xã hội hoá và đặc
biệt, đang hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực với khu vực, thế giới và toàn cầu. Trên con
đường đổi mới ấy, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta còn gặp không ít những khó khăn.
Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi
phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội và ngay
chính bản thân người phụ nữ đó cũng như sự phát triển bình thường của con cái họ.
Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân
loại, để lai nhiều hậu quả cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Mặc dù LHQ và các nước
trên thế giới đã có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo lực gia đình và ban hành
nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình và hiện đã có 89 nước
trên thế giới có các quy định pháp luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình, trong đó có
60 nước có luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình; 7 nước có luật riêng về bạo lực
chống lại phụ nữ... nhưng ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn là nạn nhân của bạo lực gia
đình. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở
thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Theo ước tính, mỗi năm
trên thế giới có khoảng trên 3 triệu phụ nữ chết vì bạo lực gia đình; từ 15 đến 71% phụ nữ
phải chịu một hình thức bạo lực nào đó về thể xác và tình dục ngay trong gia đình. Cứ 3
phụ nữ trên thế giới thì có ít nhất một người bị đánh đập, ép buộc về tình dục hoặc bị lạm
dụng trong suốt cuộc đời mà những kẻ lạm dụng thường là chồng và bạn tình. Bạo lực gia
đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của
các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới, là nguyên nhân dẫn đến
tử vong và làm mất khả năng của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Bạo lực gia đình đã và
đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các quyền con người.
Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực gia đình
tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình
là vi phạm pháp luật. ở Việt Nam, vấn đề phòng chống bạo lực gia đình được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Điều này được thể hiện trong các chính sách của Đảng và các
quy định của pháp luật. Điều 63, Hiến pháp 1992 quy định : "Công dân nữ và nam có
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình, nghiêm cấm
mọi hành vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ".
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi các hình
thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản pháp luật khác như
Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực
gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo
lực gia đình, để các quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình được thực thi
trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn hoá - Thể thao và
Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công bố ngày 26/6/2008 với điều tra của
93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền đất nước thì có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua
một hình thức bạo lực gia đình như đánh, mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và như vậy
cứ 5 cặp vợ chồng thì đã có một cặp đã có hình thức bạo lực gia đình.
Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả xấu cho
xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của
mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Theo báo cáo của Bộ Công an, trên toàn quốc cứ
2 đến 3 ngày có một người bị giết liên quan đến bạo lực gia đình. Trong năm 2005, có 14%
số vụ giết người liên quan đến bạo lực gia đình. Ba tháng đầu năm 2006, tỷ lệ này đã lên
tới 30,5%. Theo thống kê của ngành Toà án, trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả nước có
352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm 53,1%). Vi phạm
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội
và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế
hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo
lực gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam.
Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và phục
hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác
liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân.
Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã xảy ra và
số lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội. Điển hình như vụ bạo lực
kéo dài suốt 32 năm xảy ra ở Quảng Bình mà nạn nhân là bà Xuê. Đã không biết bao lần bà
chết đi sống lại với những trận đòn tàn bạo của chồng. Mới đây, chỉ vì không đào đâu ra
tiền cho chồng uống rượu, bà đã bị chính người chồng trói lại, đánh đập tàn nhẫn, gây
thương tích nghiêm trọng. Nhiều hành vi dã man khác như khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào
miệng vợ; đổ xăng đốt vợ; hành xử vợ bằng búa... Những hành vi đã mất hết nhân tính đó
đã gây bức xúc cho xã hội. Tiếng kêu cứu thảm thương của rất nhiều người phụ nữ đã vang
lên đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về
bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật
và các nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và biện
pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho phụ nữ, giúp họ thoát khỏi bạo lực đồng
thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia
đình nói chung đặc biệt đối với phụ nữ nói riêng, tạo ổn định và phát triển cho xã hội.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phụ nữ thoát khỏi bạo lực gia đình,
loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong xã hội, đề tài " Vi phạm
phỏp luật phũng, chống bạo lực gia đỡnh đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay " có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở nước ta, phòng chống bạo lực gia đình không còn là vấn đề mới và được quy định
cụ thể ở Hiến pháp và pháp luật. Điều 63, Hiến pháp 92 quy định: "nghiêm cấm mọi hành
vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ". Điều 107, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: "Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh
dự, nhân phẩm, uy tín của nhau"... và gần đây nhất, Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình đã được ban hành.
Trên thực tế, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về bạo lực gia đình. Nhiều
công trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố như :
"Luật phòng chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới" (tài liệu dịch của Uỷ
ban các vấn đề xã hội của Quốc hội); "Bạo lực trên cơ sở giới tính ở Việt Nam" của Ngân
hàng thế giới năm 1999; "Bạo lực trên cơ sở giới" của TS. Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy,
Nguyễn Hữu Minh năm 1999; "Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam" của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam năm 2001; "Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta
hiện nay- Thực trạng, vấn đề và giải pháp" của Viện nghiên cứu quyền con người - Học
viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008; "Nhận thức và thái độ của
cộng đồng đối với bạo lực gia đình - đề xuất và giải pháp" do TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó
chủ nhiệm Uỷ ban DS - GĐ - TE Hà Nội và PGS. TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện trưởng
Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh; Báo cáo "Ngăn chặn bạo hành trong gia đình: Phổ biến tài liệu tư vấn chống bạo
hành gia đình cho các cộng sự ở nông thôn" của tác giả Lê Thị Phương Mai...
Các công trình nêu trên chủ yếu là các tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài nhằm giới
thiệu về Luật phòng chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới; nghiên cứu giới
thiệu một số khía cạnh như thực trạng bạo lực gia đình, một số vấn đề đặt ra về phòng
chống bạo lực gia đình trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình
dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở
nước ta đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ
nguy hiểm ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Hơn nữa, nhu cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ khỏi bị bạo
lực gia đình đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ với một bộ máy và con người cụ
thể trên cơ sở so sánh và tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới là vấn đề cấp
thiết ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi
phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay,
trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm
pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Trên cơ sở lý luận về vi
phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm pháp luật
trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ; nội dung vi phạm pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ
các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản
nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Từ đó, phân tích các nguyên
nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp
khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, chống vi
phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ góp phần hạn chế tiến tới
đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong
xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn xác định
đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong việc
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vụ bạo lực gia đình mà nạn nhân của vụ bạo
lực gia đình chỉ là phụ nữ trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước- pháp luật và pháp luật
thực định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ trong phạm vi cả nước từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước,
pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp biện chứng, lịch sử, so
sánh, phân tích, tổng hợp và điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Xây dựng lý luận về vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ.
- Hệ thống hoá, phân tích thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đấu tranh, hạn chế, tiến tới đẩy lùi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn
trong việc hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối
với phụ nữ ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản phòng, chống vi phạm pháp luật về bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ ở việt nam
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại vi phạm pháp luật
1.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, pháp luật với những thế mạnh của
mình đã điều chỉnh nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, được nhà nước đảm bảo thực hiện
và được nhân dân đồng tình ủng hộ, thực hiện khá nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn còn một số tổ chức, cá nhân không tuân thủ, chấp
hành pháp luật, làm trái các quy định của pháp luật như tình trạng vi phạm an toàn giao
thông còn xảy ra nhiều, nhiều vụ án giết người, tham nhũng, buôn bán ma tuý...với tính
chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng. Đó là những vi phạm pháp luật.
Nếu như hành vi hợp pháp là hành vi phù hợp với pháp luật, có ích cho xã hội, có
mục đích, động cơ tuân thủ pháp luật thì vi phạm pháp luật là những hành vi của các chủ
thể trái với pháp luật, làm ngược lại những gì pháp luật đặt ra, yêu cầu. Vi phạm pháp luật
xâm hại đến lợi ích vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã hội và của nhân dân.
Vi phạm pháp luật là cơ sở duy nhất phát sinh trách nhiệm pháp lý. Không có vi
phạm pháp luật thì không có trách nhiệm pháp lý.
Từ những phân tích trên đây, ta có khái niệm: Vi phạm pháp luật là hành vi trái
pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, bởi lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm
hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
1.1.2. Đặc điểm vi phạm pháp luật.
Đặc điểm của vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định về bản
chất của vi phạm pháp luật, từ đó góp phần đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh
phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội ta hiện nay.
Thứ nhất: vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc không hành động)
có tính xác định của con người.
Như ta đã biết các quy định của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh các hành vi
của con người. C.Mác đã viết: Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn không tồn tại đối
với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Cho nên vi phạm pháp luật trước
hết phải là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội... (các chủ thể pháp luật). Vi phạm pháp luật phải biểu hiện bằng hành vi cụ thể của
con người (hành động có ý thức và ý chí của con người). Vì vậy mà một người dù có ý
nghĩ xấu như thế nào đi chăng nữa nếu không biểu hiện bằng hành động cụ thể thì không
phải là vi phạm pháp luật.
Như vậy, vi phạm pháp luật trước hết phải được thể hiện bằng hành vi cụ thể của
con người mà không phải là những tư tưởng, ý nghĩ, ý niệm. Bởi lẽ, trên thực tế, chúng ta
không thể dùng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh, kiểm tra, đánh giá những ý nghĩ của
con người.
Hành vi vi phạm pháp luật được biểu hiện dưới hai hình thức:
+ Hành vi hành động: chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
+ Hành vi không hành động: chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu
cầu phải làm.
Thứ hai, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật.
Tính trái pháp luật thể hiện: sự chống đối những quy định chung của pháp luật.
Pháp luật quy định như thế này thì chủ thể lại hành động ngược lại và trong một trường
hợp cụ thể nào đó, quy phạm pháp luật bắt buộc con người phải hành động nhưng chủ thể
lại không hành động. Hành vi trái pháp luật bao giờ cũng xâm hại tới các quan hệ xã hội
mà pháp luật bảo vệ và là những hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
Như vậy, vi phạm pháp luật phải là những hành vi trái pháp luật, làm ngược lại
những gì pháp luật đặt ra, yêu cầu. Nhưng trong thực tế, có những hành vi rõ ràng đã xâm
hại tới các quy định của pháp luật nhưng không bị coi là vi phạm pháp luật vì chủ thể
không có lỗi như trường hợp vì phải chở bệnh nhân đi cấp cứu mà người lái xe đã đi vào
đường một chiều, vượt đèn đỏ.Vì vậy để bị coi là vi phạm pháp luật, hành vi trái pháp luật
phải chứa đựng lỗi của chủ thể hành vi đó.
Thứ ba, vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi.
Điều này thể hiện người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải thực sự có lỗi.
Khi xem xét vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật thì mới chỉ dừng lại ở việc xem xét
biểu hiện bề ngoài của hành vi, nghĩa là mới chỉ xem xét tới mặt khách quan của hành vi.
Nhưng khi nói tới hành vi vi phạm pháp luật phải thấy rằng, đó là hành vi có ý chí, có
nghĩa phải xem xét tới mặt chủ quan của hành vi. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật chỉ
ra ai là người vi phạm, khuynh hướng ý chí của người đó và trạng thái tâm lý của người vi
phạm tại thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật, cũng như thái độ của người ấy đối với
hậu quả của hành vi. Vì vậy, hành vi trái pháp luật bị coi là hành vi vi phạm pháp luật chỉ
khi có sự biểu hiện ý chí của người thực hiện hành vi đó và chúng ta cần xác định trạng
thái tâm lý của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật đó - xác định lỗi của họ.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của mình và hậu
qủa hoặc tác hại của hành vi đó đối với xã hội.
Một người bị coi là có lỗi khi hành vi mà họ thực hiện là kết quả của sự tự lựa chọn
và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định một
xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội tức là chủ thể hoàn toàn có đủ điều kiện để lựa
chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật nhưng chủ thể đã
không ch