Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam từ 2001-2010 đã vạch rõ một
trong những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước
ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như
AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO ".
Trong bối cảnh nhu cầu hội nhập đang trở thành một vấn đề mang tính tất yếu
khách quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế toàn cầu, vấn
đề bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) đã trở thành yếu tố không thể bỏ qua và ngày càng khẳng
định vai trò quan trọng của nó. SHTT được đề cập đến trong tất cả mọi mặt của đời sống:
kinh tế, thương mại, khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật Vấn đề bảo hộ quyền
SHTT xuất hiện trong hầu hết các Hiệp định thương mại song phương, đa phương; nó
được coi là một trong những yếu tố nhằm khuyến khích, thúc đẩy đầu tư sáng tạo trí tuệ,
góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia.
Trong những năm qua, để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc
tế, bên cạnh việc tham gia các hoạt động về SHTT của các tổ chức khu vực và quốc tế
(như ASEAN, APEC ), Việt Nam đã đàm phán ký kết với nước ngoài các Hiệp định có
nội dung liên quan đến SHTT như: Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA), Hiệp định
về hợp tác SHTT giữa Việt Nam- Thụy Sĩ , đồng thời đã nỗ lực, gấp rút chuẩn bị các
điều kiện cần thiết trong đó có một nội dung trọng yếu là hoàn thiện hệ thống pháp luật
về SHTT và cơ chế bảo hộ SHTT để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
110 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4366 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo
quy định của pháp luật Việt Nam
Mở Đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam từ 2001-2010 đã vạch rõ một
trong những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam là "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước
ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như
AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO…".
Trong bối cảnh nhu cầu hội nhập đang trở thành một vấn đề mang tính tất yếu
khách quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế toàn cầu, vấn
đề bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) đã trở thành yếu tố không thể bỏ qua và ngày càng khẳng
định vai trò quan trọng của nó. SHTT được đề cập đến trong tất cả mọi mặt của đời sống:
kinh tế, thương mại, khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật…Vấn đề bảo hộ quyền
SHTT xuất hiện trong hầu hết các Hiệp định thương mại song phương, đa phương; nó
được coi là một trong những yếu tố nhằm khuyến khích, thúc đẩy đầu tư sáng tạo trí tuệ,
góp phần phát triển nền kinh tế quốc gia.
Trong những năm qua, để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc
tế, bên cạnh việc tham gia các hoạt động về SHTT của các tổ chức khu vực và quốc tế
(như ASEAN, APEC…), Việt Nam đã đàm phán ký kết với nước ngoài các Hiệp định có
nội dung liên quan đến SHTT như: Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA), Hiệp định
về hợp tác SHTT giữa Việt Nam- Thụy Sĩ…, đồng thời đã nỗ lực, gấp rút chuẩn bị các
điều kiện cần thiết trong đó có một nội dung trọng yếu là hoàn thiện hệ thống pháp luật
về SHTT và cơ chế bảo hộ SHTT để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Để trở thành thành viên của WTO, một nhiệm vụ rất quan trọng của Việt Nam là
phải đáp ứng đầy đủ và hiệu quả các yêu cầu quy định trong hiệp định về các khía cạnh
thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Ngoài ra, Việt Nam cũng cần
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT của mình để phù hợp với các hiệp định, hiệp
ước song phương và đa phương mà Việt Nam sẽ tham gia trong thời gian tới.
Vào thời điểm nộp đơn gia nhập WTO (1995), hệ thống pháp luật SHTT của Việt
Nam bị đánh giá là còn nhiều điểm "chưa phù hợp và thiếu hụt lớn so với TRIPS" và
"chưa phải là một hệ thống đầy đủ và hiệu quả" [7, tr. 12]. Để cải thiện tình hình này và
cũng nhằm bảo đảm thi hành các nghĩa vụ quốc tế, Việt Nam đã xây dựng một Chương
trình hành động về SHTT khá cụ thể và nhất quán nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hộ SHTT.
Với những nỗ lực to lớn trong việc thực hiện Chương trình hành động về SHTT, cho tới
nay có thể nói rằng về cơ bản các mục tiêu quan trọng nhất đã đạt được làm cho hệ thống
pháp luật SHTT của Việt Nam có những bước tiến đáng kể. Một trong những kết quả
đáng nói nhất là Luật SHTT đã được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 19/11/2005 tại kỳ
họp thứ 8 và sẽ có hiệu lực ngày 1/7/2006.
Trong cơ chế bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền sở hữu công nghiệp
(SHCN) nói riêng việc xác lập quyền là điều kiện tiên quyết. Để được Nhà nước bảo hộ,
trước hết quyền phải được thừa nhận. Quyền SHCN có thể được xác lập một cách tự
động hoặc trên cơ sở đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật
định. Là một nội dung thuộc cơ chế bảo hộ SHTT, vấn đề xác lập quyền SHCN của Việt
Nam hiện nay cũng đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện theo hướng hài hòa hóa
với các yêu cầu của TRIPS và các điều ước quốc tế (ĐƯQT) khác mà Việt Nam đã hoặc
đang dự định ký kết, tham gia.
Là một học viên chuyên ngành Luật Dân sự, hiện đang công tác tại Cục SHTT -
cơ quan có chức năng xác lập quyền SHCN, tôi lựa chọn đề tài "Xác lập quyền sở hữu
công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu trong luận
văn của mình với mong muốn tìm hiểu, đánh giá về cơ chế, hệ thống xác lập quyền
SHCN trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về SHTT quốc tế trong tương
quan so sánh với pháp luật Việt Nam, từ đó nêu và phân tích những bất cập, hạn chế
trong quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này và đưa ra những định hướng, đề xuất
nhằm hoàn thiện cơ chế, hệ thống xác lập quyền SHCN.
2. Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ ý nghĩa và tính thời sự của vấn đề, cho đến nay đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết của các tác giả trong và ngoài nước khai thác
về các vấn đề liên quan đến SHCN và xác lập quyền SHCN dưới nhiều góc độ nghiên
cứu khác nhau; nhiều hội thảo, lớp tập huấn quy mô quốc gia và quốc tế về cơ chế, hệ
thống xác lập quyền SHCN đã được tổ chức và thực hiện.
Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo có thể kể đến những công trình
sau: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam về bảo hộ sở
hữu trí tuệ trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực (đề tài nghiên cứu khoa học QG
01.10 do Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện); cuốn Bảo hộ quyền Sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư
pháp ấn hành, Nxb Tư pháp, 2004; cuốn Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ của TS. Phùng
Trung Tập, Nxb Tư pháp, 2004; Luận văn cao học: Quyền ưu tiên đối với việc đăng ký sở
hữu công nghiệp tại Việt Nam của Lê Mai Thanh, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
1999. Ngoài ra, còn có các đề án nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp cơ sở về xác lập
quyền sở hữu công nghiệp và tăng cường hiệu quả hệ thống xác lập quyền sở hữu công
nghiệp do Cục SHTT chủ trì thực hiện...
Các chuyên đề, bài viết có thể đến các bài viết của TS. Nguyễn Thị Quế Anh:
Bảo hộ tên thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ
tên thương mại, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 4/2002; Một số vấn đề về
bảo hộ bí mật kinh doanh và hoàn thiện pháp luật bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam,
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 3/2004; bài viết Một số vấn đề về nhãn
hiệu nổi tiếng của tác giả Nguyễn Như Quỳnh, tạp chí Luật học, số 2/2001...
Các tài liệu nước ngoài khá nhiều, nổi bật như: cuốn Cẩm nang Sở hữu trí tuệ:
chính sách, pháp luật và áp dụng (IP Law handbook: policy, law and use), Nhà xuất bản
WIPO, 2000 (Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, 2005); cuốn Sở hữu trí tuệ - một công cụ
đắc lực để phát triển kinh tế (Intellectual property – a power tool for economic growth)
của Kamil Idris, Nhà xuất bản WIPO, 1999 (Bản dịch Tiếng Việt của Cục Sở hữu trí tuệ,
2005). Ngoài ra, còn có các dự án quốc tế nghiên cứu về hệ thống xác lập quyền của các
quốc gia thuộc các cộng đồng, khu vực: ASEAN, APEC, EU...
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu phân tích về hệ
thống xác lập quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó, việc nghiên
cứu đề tài "Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam"
không bị trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về SHCN và hệ thống xác
lập quyền SHCN cùng với việc phân tích luật thực định và thực trạng của hoạt động xác
lập quyền SHCN ở Việt Nam, tác giả đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện
cơ chế và hệ thống xác lập quyền SHCN ở Việt Nam từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động
xác lập quyền.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về SHCN và xác lập quyền SHCN;
- Tìm hiểu các nguyên tắc và hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy định tại các
ĐƯQT và quy định pháp luật của một số nước trên thế giới;
- Phân tích hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam
từ đó đặt ra những vấn đề, nội dung bất cập cần được khắc phục, sửa đổi, bổ sung;
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt
Nam về xác lập quyền SHCN.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận liên quan đến hệ thống xác lập quyền SHCN và pháp luật thực định của Việt
Nam, của một số nước trên thế giới cũng như quy định của các ĐƯQT về xác lập quyền
SHCN cùng với việc đánh giá thực trạng xác lập quyền SHCN ở Việt Nam từ đó đưa ra
những lập luận nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
5. Những cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Những cơ sở lý luận của luận văn là các thành tựu của các chuyên ngành khoa
học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình
sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong các công trình nghiên cứu, sách
chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học - luật gia Việt Nam và
nước ngoài. Ngoài ra, để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về SHCN và xác lập quyền SHCN, trong quá trình viết luận văn, tác giả
còn sử dụng hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước cũng như những văn bản
hướng dẫn, cụ thể hóa của các cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành để tiếp cận, làm
sáng tỏ về mặt khoa học các vấn đề nghiên cứu tương ứng với cơ sở phương pháp luận là
triết học Mác - Lênin (đi từ những nội dung có tính lý luận đến những vấn đề thực tiễn).
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: phân tích, hệ thống hóa, so sánh,
thống kê, tổng hợp…
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về xác lập quyền SHCN;
- Làm rõ tiến trình phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền SHCN và xác lập
quyền SHCN trên thế giới và ở Việt Nam qua đó làm sáng tỏ tính kế thừa và phát triển
của các quy định pháp luật về vấn đề này;
- Phân tích, đánh giá về hệ thống xác lập quyền SHCN theo quy định của các
ĐƯQT và của một số nước trên thế giới;
- Đưa ra một bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt động xác lập quyền SHCN
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của vấn đề đồng thời đánh giá, so sánh các quy định mới trong Luật SHTT về các vấn
đề liên quan đến xác lập quyền SHCN;
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xác lập
quyền SHCN và những kiến nghị đề xuất cụ thể về trình tự, thủ tục xác lập quyền SHCN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục văn bản pháp luật, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp và xác lập quyền sở
hữu công nghiệp.
Chương 2: Hệ thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp
luật Việt Nam - thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Thực trạng hoạt động xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
và phương hướng hoàn thiện.
Chương 1
Khái Quát CHUNG Về Quyền sở hữu công nghiệp
Và Xác Lập Quyền sở hữu công nghiệp
1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Khái niệm quyền SHCN là một bộ phận cấu thành của một khái niệm có nội hàm
rộng hơn, đó là quyền SHTT. Do vậy, trước khi đi vào nghiên cứu nội dung khái niệm
quyền SHCN, cần phải hiểu quyền SHTT là gì.
SHTT có thể được hiểu một cách chung nhất là những kết quả sáng tạo trí tuệ
mang tính vô hình nhưng lại có ý nghĩa rất lớn khi được ứng dụng vào các sản phẩm hữu
hình; đó là những sản phẩm của quá trình sáng tạo khoa học - công nghệ, văn học, nghệ
thuật, khoa học... Thuật ngữ SHTT được hình thành và được đề cập đến cùng với quá
trình áp dụng trí tưởng tượng và tri thức của con người để đổi mới và sáng tạo. Ngày nay,
thuật ngữ này đang được sử dụng ngày càng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Công ước thành lập WIPO tại Stockholm ngày 14-7-1967 đã đưa ra hệ thống các
đối tượng thuộc phạm trù SHTT được chấp nhận trên toàn thế giới, bao gồm:
i) Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
ii) Cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, bản ghi âm và cuộc phát sóng;
iii) Sáng chế thuộc mọi lĩnh vực nỗ lực của con người;
iv) Phát minh khoa học;
v) Kiểu dáng công nghiệp (KDCN);
vi) Nhãn hiệu, tên và chỉ dẫn thương mại;
vii) Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh;
viii) Tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công
nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật.
Các lĩnh vực nêu tại điểm (i) và (ii) thuộc nhánh "Quyền tác giả", trong đó các lĩnh
vực thuộc điểm (ii) được gọi là "quyền liên quan (quyền kề cận)" và các lĩnh vực nêu tại
các điểm từ (iii) đến (vii) thuộc nhánh "Quyền sở hữu công nghiệp".
Như vậy, một cách truyền thống, quyền SHTT được hiểu là bao gồm hai nội
dung, đó là "quyền tác giả" và "quyền sở hữu công nghiệp".
Quyền tác giả đề cập đến quyền của người sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật, khoa học. Những sáng tạo được bảo hộ quyền tác giả là những sáng tạo
trong việc lựa chọn và sắp xếp từ ngữ, nốt nhạc, màu sắc và hình khối. Luật về quyền tác
giả bảo hộ chủ sở hữu quyền đối với những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học nhằm
chống lại việc sao chép, sử dụng hình thức của tác phẩm nguyên gốc đã được bảo hộ. Các
đối tượng có thể được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc,
tạo hình, phát thanh, truyền hình, hệ thống lưu trữ và truy cập thông tin trong máy tính...
Tuy nhiên, luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện ý tưởng chứ không bảo hộ
nội dung các ý tưởng đó.
Quyền SHCN đề cập đến quyền của người sáng tạo trí tuệ liên quan đến các đối
tượng thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và thương mại, bao gồm: sáng chế, giải pháp
hữu ích, KDCN, nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại (tên thương mại, chỉ dẫn địa lý) và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh.
Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra rằng, SHTT nói chung và SHCN nói riêng là vấn đề
chịu ảnh hưởng lớn của sự vận động, phát triển của khoa học, công nghệ và đời sống xã
hội [23, tr. 19]. Các ĐƯQT được ký kết từ năm 1967 trở lại đây, trong đó đáng chú ý là
Hiệp định TRIPS đã đưa ra và làm rõ thêm những loại hình mới của SHTT như: chỉ dẫn
địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin bí mật, chương trình máy tính, bộ sưu tập
dữ liệu... Xu hướng này cho thấy tính năng động của SHTT trong việc thích ứng với sự
phát triển công nghệ và văn hóa, nói cách khác, nội hàm của khái niệm quyền SHCN vẫn
đang ngày càng được mở rộng bao trùm các đối tượng mới của đời sống xã hội.
Đối tượng quyền SHCN có thể được phân thành hai nhóm theo tính chất riêng của
chúng:
Nhóm các thành quả sáng tạo khoa học - công nghệ: bao gồm sáng chế, giải pháp
hữu ích, KDCN, thông tin bí mật, thiết kế bố trí mạch tích hợp.
Nhóm các dấu hiệu đặc trưng dùng để phân biệt: bao gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa
lý, tên thương mại. Những đối tượng này hàm chứa yếu tố sáng tạo trí tuệ không đáng kể,
không nổi trội nhưng vẫn được coi là đối tượng SHTT vì chúng chứa đựng những dấu
hiệu có khả năng truyền tin tới người tiêu dùng về sản phẩm, dịch vụ đang lưu thông trên
thị trường. Việc bảo hộ các dấu hiệu mang tính đặc trưng này nhằm khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Quyền SHCN được thừa nhận nhằm bảo hộ các thành quả sáng tạo trí tuệ của con
người. Với sự ghi nhận bảo hộ bởi cưỡng chế nhà nước, quyền SHCN trở thành một loại
quyền tài sản có giá trị lớn đối với chủ sở hữu. Ví dụ, có những nhãn hiệu có thể trở thành tài
sản lớn nhất mà một doanh nghiệp có thể chiếm giữ [39, tr. 563]. Để bảo hộ quyền SHCN,
mỗi quốc gia có một hệ thống bảo hộ riêng phù hợp với các đặc điểm về kinh tế, chính trị và
xã hội của mình.
Dưới giác độ pháp lý, thuật ngữ "quyền sở hữu công nghiệp" được hiểu theo hai
nghĩa:
Theo nghĩa khách quan, quyền SHCN là một chế định pháp luật bao gồm tổng
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các đối tượng SHCN được Nhà nước bảo hộ.
Theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN là các quyền dân sự cụ thể của các chủ sở
hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các đối tượng SHCN.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, quyền SHCN được hiểu là
"quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa và
quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định". "Các đối tượng khác"
này đã được cụ thể hóa trong các Nghị định hướng dẫn thi hành BLDS (Nghị định
54/2000/NĐ-CP và 42/2003/NĐ-CP), bao gồm: chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, tên
thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn.
BLDS năm 2005 thay thế BLDS năm 1995 nêu trên quy định về quyền SHCN
theo hướng liệt kê các đối tượng quyền: "Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm:
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh
doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý" (Điều 750).
Luật SHTT với tư cách là một đạo luật chuyên ngành điều chỉnh về SHTT quy định
cụ thể hơn: quyền SHCN là "Quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh" (Điều 4.4).
Quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam và các đối tượng được bảo
hộ SHCN về cơ bản phù hợp với yêu cầu của TRIPS và các ĐƯQT về SHCN cũng như
thông lệ quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền SHCN là một loại quyền tài sản, do đó, nó có đầy đủ các đặc tính của quyền
sở hữu tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của mình và không
ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất
phát từ tính chất đặc thù của các đối tượng SHCN - tài sản trí tuệ, quyền SHCN có những
đặc điểm khác với các quyền sở hữu khác và thậm chí khác cả với quyền tác giả - một bộ
phận của quyền SHTT.
a) Sự khác biệt giữa quyền SHCN và quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình
Sự khác biệt giữa quyền SHCN và quyền sở hữu đối với tài sản hữu hình xuất
phát từ thuộc tính vô hình của các đối tượng SHCN. Quyền SHCN không thể xác định
được thông qua các đặc điểm vật chất của đối tượng SHCN mà nó phải được thể hiện
thông qua một dạng vật chất hữu hình hoặc một cách thức cụ thể nào đó để có thể bảo vệ
được. Có thể xem xét, đánh giá sự khác biệt của hai phạm trù này trên các khía cạnh sau:
- Về căn cứ xác lập quyền:
Quyền sở hữu tài sản hữu hình được xác lập trên cơ sở các sự kiện pháp lý quy
định trong BLDS. Quyền SHCN đối với hầu hết các đối tượng SHCN được xác lập thông
qua việc nộp đơn đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ hoặc có thể được xác lập một cách tự
động nếu đối tượng SHCN đáp ứng những tiêu chuẩn bảo hộ nhất định do pháp luật quy
định.
- Về chủ thể quyền:
Chủ thể quyền sở hữu tài sản nói chung có thể là bất kỳ ai: cá nhân, pháp nhân, tổ
chức và cũng có thể là Nhà nước - người chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản hợp pháp.
Trong khi đó, chủ thể quyền SHCN chỉ có thể là những cá nhân, tổ chức, đáp ứng các
điều kiện tương ứng với từng loại đối tượng SHCN theo quy định của pháp luật. Chẳng
hạn, chủ sở hữu nhãn hiệu phải là những người có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc
lĩnh vực đăng ký nhãn hiệu; chủ ở hữu nhãn hiệu tập thể chỉ có thể là một tổ chức (hội,
hiệp hội ngành nghề); chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận chỉ có thể là cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền chứng nhận đối với loại sản phẩm mang nhãn hiệu.
- Về đối tượng quyền:
Đối tượng của quyền sở hữu tài sản nói chung là các loại vật chất hữu hình có thể
"cầm, nắm, giữ" được và một số quyền tài sản luôn xác định được bằng một số lượng vật
chất cụ thể. Trong khi đó, đối tượng của quyền SHCN là những sản phẩm vô hình c