Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, giáo dục và đào
tạo đóng vai trò rất quan trọng, đổi mới giáo dục và đào tạo là một trong những
trọng tâm chiến lược của đất nước.
Để đáp ứng nhu cầu về nguồn lực con người - yếu tố quyết định của sự phát
triển đất nước, phải tạo sự chuyển biến toàn diện về giáo dục và đào tạo. Đó là:
“Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo
của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét,
học vẹt, học chay. Đổi mới và thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử” (Nghị quyết
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX).
Để nâng cao chất lượng giáo dục và sớm kịp thời hoà nhập với cộng đồng
quốc tế, chúng ta phải đổi mới cả về nội dung chương trình, phương pháp dạy học
và phương pháp kiểm tra đánh giá.
Đánh giá vừa là khâu cuối cùng vừa là điểm khởi đầu cho một chu trình kín
tiếp theo với chất lượng cao hơn. Vì thế, kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học
là một công việc rất phức tạp và rất cần thiết. Quá trình đó, nếu được tiến hành một
cách khoa học sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc điều khiển hoạt động dạy học, có tác
dụng rất lớn trong việc củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ và giáo
dục nhân cách cho học sinh.
119 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1286 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng và cách suy luận để giải nhanh hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn phần hiđrocacbon lớp 11 THPT - Ban Khoa học tự nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Oanh
Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học môn hoá học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS - TS. TRẦN THỊ TỬU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn Ban Giám hiệu
trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Phòng Khoa học Công nghệ & Sau đại
học, quý thầy cô đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến :
- PGS.TS. Trần Thị Tửu, người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ,
chỉ bảo trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Tiến sĩ Trịnh Văn Biều, Trưởng khoa Hóa học người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường THPT Buôn Ma Thuột và
THPT Chu Văn An tỉnh Đak Lak đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành
luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, những người thân yêu,
bạn hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ trong những ngày học tập,
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh 2008
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, giáo dục và đào
tạo đóng vai trò rất quan trọng, đổi mới giáo dục và đào tạo là một trong những
trọng tâm chiến lược của đất nước.
Để đáp ứng nhu cầu về nguồn lực con người - yếu tố quyết định của sự phát
triển đất nước, phải tạo sự chuyển biến toàn diện về giáo dục và đào tạo. Đó là:
“Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo
của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét,
học vẹt, học chay. Đổi mới và thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử” (Nghị quyết
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX).
Để nâng cao chất lượng giáo dục và sớm kịp thời hoà nhập với cộng đồng
quốc tế, chúng ta phải đổi mới cả về nội dung chương trình, phương pháp dạy học
và phương pháp kiểm tra đánh giá.
Đánh giá vừa là khâu cuối cùng vừa là điểm khởi đầu cho một chu trình kín
tiếp theo với chất lượng cao hơn. Vì thế, kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học
là một công việc rất phức tạp và rất cần thiết. Quá trình đó, nếu được tiến hành một
cách khoa học sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc điều khiển hoạt động dạy học, có tác
dụng rất lớn trong việc củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ và giáo
dục nhân cách cho học sinh.
Nghị quyết số 37/ 2004/ QH 11 ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Quốc hội khoá
XI về giáo dục đã xác định “Tiếp tục cải tiến công tác thi cử theo hướng gọn nhẹ,
hiệu quả, thiết thực”.
Trước yêu cầu đó, trong những năm gần đây, vấn đề cải tiến kiểm tra, đánh giá
đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm. Một trong những phương hướng cải
tiến có hiệu quả hiện nay là kết hợp các phương pháp đánh giá truyền thống và từng
bước áp dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan vào tất cả môn học ở các cấp
học và ở cả các kỳ thi : tốt nghiệp, tuyển sinh...
Phương pháp trắc nghiệm khách quan cho phép khắc phục được những nhược
điểm của phương pháp truyền thống: kiểm tra được nhiều kiến thức trong chương
trình, chống thái độ học tủ, học lệch, đối phó; kết quả đánh giá khách quan chính
xác, ít tốn thời gian, công sức của giáo viên...
Kiểm tra đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm khách quan, với mỗi bài
kiểm tra, mỗi đề thi thường khá nhiều câu mà thời gian tương đối ngắn. Do đó việc
tìm ra các phương pháp giải nhanh bài toán hóa học có ý nghĩa rất lớn.
Giải bài tập hóa học không chỉ đơn thuần là vận dụng kiến thức mà cả tìm
kiếm kiến thức mới và vận dụng kiến thức cũ trong những tình huống mới. Chính vì
thế việc giải các bài toán hóa học có cách giải nhanh sẽ có tác dụng rất lớn trong
việc rèn tư duy, phát triển trí thông minh cho học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Xây dựng và cách suy
luận để giải nhanh hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
phần hiđrocacbon lớp 11 THPT- ban Khoa học tự nhiên”.
2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học hoá học ở trường trung học phổ thông.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) nhiều lựa chọn có cách suy luận
để giải nhanh phần hiđrocacbon lớp11 THPT ban KHTN.
3. Mục đích của đề tài
Xây dựng hệ thống câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn có cách suy luận để giải
nhanh phần hiđrocacbon lớp11 THPT ban KHTN.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt mục đích trên chúng tôi, chúng tôi phải hoàn thành những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
Phân tích các câu hỏi, bài toán phần hiđrocacbon Hóa học lớp 11 ban
KHTN và các tài liệu tham khảo.
Xây dựng hệ thống câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn có cách suy luận để
giải nhanh phần hiđrocacbon lớp 11 THPT ban KHTN.
Thực nghiệm sư phạm xác định tính khả thi và hiệu quả của đề tài.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu có hệ thống câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn có cách suy luận để giải nhanh
chính xác, khoa học thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy, học và phát triển khả
năng tư duy của học sinh THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Bài tập hóa học ở trường phổ thông.
- Cấu trúc, nội dung chương trình hoá học THPT.
- Một số phương pháp giải nhanh bài tập hóa học ở trường THPT.
Phương pháp điều tra
- Trao đổi ý kiến với các giáo viên dạy hoá học ở trường THPT.
- Thăm dò ý kiến của giáo viên, học sinh sau khi sử dụng hệ thống câu hỏi.
Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phân tích chương trình hoá học THPT, các số liệu thực nghiệm.
- Tổng hợp các kết quả thực nghiệm.
Thực nghiệm sư phạm
- Đánh giá hiệu quả hệ thống câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn có cách suy
luận để giải nhanh phần hiđrocacbon lớp 11 ban KHTN.
- Xử lý kết quả bằng phương pháp thống kê toán học.
7. Phạm vi của đề tài
Xây dựng hệ thống câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn (4 lựa chọn) có cách suy
luận để giải nhanh phần hiđrocacbon lớp 11 THPT ban KHTN.
8. Điểm mới của luận văn
- Cách suy luận để giải nhanh câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn phần
hiđrocacbon lớp 11 THPT ban KHTN.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn áp dụng các cách suy
luận để giải nhanh phần hiđrocacbon lớp 11 THPT ban KHTN.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Giáo dục học: Trắc nghiệm (test) là “bộ bài tập chuẩn dưới
dạng các câu hỏi, hình đố... cần thực hiện để đánh giá, đo lường năng lực trí tuệ, kĩ
năng, kĩ xảo và những đặc điểm tâm sinh lý của nhân cách” [18, tr. 360].
Như vậy, trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động để đo lường năng lực
của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục trắc
nghiệm được tiến hành để đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh.
1.1.2. Phân loại [15], [30]
Câu hỏi trắc nghiệm có thể phân chia làm 2 loại: câu hỏi trắc nghiệm tự luận
và câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
1.1.2.1. Trắc nghiệm tự luận
Trắc nghiệm tự luận là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc sử
dụng công cụ đo lường là các câu hỏi, học sinh phải tự trình bày ý kiến của mình
trong một bài viết để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra trong một khoảng thời
gian định sẵn.
Trắc nghiệm tự luận đòi hỏi học sinh phải nhớ lại kiến thức, phải biết cách
sắp xếp các vấn đề một cách hợp lý khoa học.
1.1.2.2. Trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra - đánh giá kết quả học tập
của học sinh bằng hệ thông câu hỏi trắc nghiệm gọi là “khách quan” vì cách cho
điểm hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào người chấm.
Mỗi bài TNKQ gồm nhiều câu hỏi với nội dung kiến thức rộng, mỗi câu nêu
ra một vấn đề với những thông tin cần thiết sao cho học sinh phải trả lời vắn tắt cho
từng câu.
Bảng 1.1. So sánh hai loại hình trắc nghiệm.
Trắc nghiệm tự luận Trắc nghiệm khách quan
- Học sinh tự lựa chọn câu trả lời và cách
diễn đạt.
- Số câu hỏi ít, nhưng tổng quát.
- Học sinh mất nhiều thời gian để suy
nghĩ và viết .
- Chất lượng đánh giá ít chính xác, phụ
thuộc người chấm.
- Đề thi không phủ kín chương trình
- Dễ soạn, khó chấm, chấm lâu hơn.
- Học sinh phải chọn một trong những
câu trả lời đã cho.
- Số câu hỏi nhiều và có tính chuyên
biệt.
- Học sinh mất nhiều thời gian để đọc
và suy nghĩ.
- Chất lượng đánh giá khách quan hơn
(máy chấm).
- Đề thi phủ kín chương trình.
- Khó soạn, dễ chấm, chấm nhanh hơn.
Từ bảng so sánh có thể thấy sự khác nhau quan trọng giữa hai phương pháp
là tính khách quan. Đối với hình thức tự luận, kết quả chấm phụ thuộc vào người
chấm, do đó rất khó công bằng, chính xác. Với trắc nghiệm khách quan, chất lượng
đánh giá khách quan hơn do đã ứng dụng công nghệ thông tin vào chấm bài. Đây
chính là ưu điểm lớn nhất của phương pháp này.
Các chuyên gia về đánh giá cho rằng phương pháp tự luận nên dùng trong
những trường hợp sau:
- Khi thí sinh không quá đông.
- Khi muốn khuyến khích và đánh giá cách diễn đạt.
- Khi muốn tìm hiểu ý tưởng của học sinh hơn là khảo sát kết quả học tập.
Còn TNKQ nên dùng trong những trường hợp sau:
- Khi thí sinh rất đông ( thi tốt nghiệp, tuyển sinh toàn quốc).
- Khi muốn chấm bài nhanh, muốn có điểm số đáng tin cậy.
- Coi trọng công bằng, chính xác và ngăn chặn sự gian lận trong thi cử.
- Khi muốn ngăn chặn nạn học tủ, học vẹt và giảm thiếu sự may rủi.
1.1.3. Các loại câu TNKQ [6], [9], [15], [30], [37]
Có thể phân chia thành 4 loại:
a. Câu ghép đôi
Cho 2 cột nhóm từ, đòi hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở 2 cột
với nhau sao cho phù hợp về nội dung.
Ưu điểm
Dễ viết, dễ dùng, thích hợp với học sinh THCS. Có thể dùng để đo mức trí
năng khác nhau.
Khuyết điểm
Không thích hợp cho việc thẫm định các khả năng sắp đặt và vận dụng kiến thức.
b. Câu điền khuyết
Nêu một mệnh đề bị khuyết một bộ phận (chỗ trống), thí sinh phải điền nội
dung thích hợp vào chỗ trống.
Ưu điểm
Phát huy được óc sáng kiến. Học sinh không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ
ra, tìm ra câu trả lời.
Khuyết điểm
Phạm vi kiểm tra của loại câu hỏi này thường chi tiết, vụn vặt. Việc chấm bài
thường mất thời gian, không khách quan.
c. Câu đúng - sai
Đưa ra một nhận định, thí sinh phải lựa chọn một trong 2 phương án trả lời
để khẳng định nhận định đúng hay sai.
Ưu điểm
Là loại câu hỏi đơn giản dùng để kiểm tra kiến thức về sự kiện. Vì vậy việc
soạn câu tương đối dễ dàng, ít phạm lỗi, khách quan khi chấm.
Nhược điểm
Học sinh có thể đoán mò mà xác suất đúng cao nên độ tin cậy thấp.
d. Câu nhiều lựa chọn
Đưa ra một nhận định có 4-5 phương án trả lời, thí sinh phải lựa chọn để
đánh dấu vào 1 phương án đúng duy nhất. Câu hỏi gồm có 2 phần, phần dẫn
và phần lựa chọn:
- Phần dẫn là một câu hỏi, ý tưởng phải rõ ràng giúp học sinh hiểu rõ câu trắc
nghiệm muốn hỏi điều gì.
- Phần lựa chọn gồm 4 – 5 phương án trong số đó có một phương án đúng.
Những phương án còn lại được gọi là gây “nhiễu”.
- Phần dẫn và phần lựa chọn khi ghép lại với nhau phải thành một câu hoàn
chỉnh về mặt ngữ pháp.
- Các câu nhiễu cũng phải hấp dẫn với học sinh, đặc biệt với học sinh chưa
nắm kĩ bài học. Các “nhiễu“ thường được xây dựng dựa trên những sai sót
mà học sinh hay mắc phải, những trường hợp khái quát không đầy đủ.
- Sắp xếp phương án đúng là ngẫu nhiên tránh thể hiện một ưu tiên đối với
một phương án nào đó.
Ưu điểm
- Chấm bài nhanh, chính xác khách quan.
- Phản hồi nhanh kết quả học tập của học sinh giúp học sinh điều chỉnh được
hoạt động học.
- Kiểm tra được nhiều kiến thức trong thời gian ngắn, chống học tủ.
- Có thể đo được khả năng tư duy khác nhau.
- Rèn luyện các kỹ năng: dự đoán, lựa chọn phương án giải quyết.
- Ít tốn công chấm bài, khách quan trong chấm thi do áp dụng được công nghệ
thông tin trong chấm và phân tích kết quả.
Nhược điểm
- Không đánh giá được trình độ diễn đạt, lập luận của học sinh.
- Mất nhiều thời gian biên soạn đề.
- Có yếu tố may rủi trong làm bài do thí sinh có thể tự chọn phương án.
Những lưu ý khi soạn câu TNKQ nhiều lựa chọn
Câu hỏi loại này có thể dùng thẩm định trí năng ở mức biết, khả năng vận
dụng, phân tích, tổng hợp ngay cả khi khả năng phán đoán cao hơn. Vì vậy, khi viết
câu này cần lưu ý:
- Câu dẫn phải có nội dung ngắn gọn, rõ ràng, lời văn sáng sủa, phải diễn đạt
rõ ràng một vấn đề. Tránh dùng các từ phủ định, nếu không tránh được thì
cần phải được nhấn mạnh để học sinh không bị nhầm. Câu dẫn phải là câu
trọn vẹn để học sinh hiểu được mình đang hỏi vấn đề gì.
- Câu chọn cũng phải rõ ràng, dễ hiểu và phải có cùng loại quan hệ với câu
dẫn, phù hợp về mặt ngữ pháp với câu dẫn.
- Các câu nhiễu phải có tác dụng gây nhiễu với các học sinh có năng lực tốt
và tác động thu hút học sinh kém.
- Nên có 4-5 phương án để chọn cho mỗi câu hỏi. Nếu số phương án trả lời ít
hơn thì khả năng đoán mò, may rủi sẽ tăng lên. Nhưng nếu có quá nhiều
phương án để chọn thì giáo viên khó soạn và học sinh mất nhiều thời gian để
đọc.
- Không được đưa 2 câu chọn cùng ý nghĩa, mỗi câu kiểm tra chỉ nên soạn
một nội dung kiến thức nào đó.
- Các câu trả lời đúng phải được sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên, số lần xuất
hiện ở các vị trí A, B, C, D, E phải gần như nhau.
Dạng trắc nghiệm khách quan được ưa chuộng nhất hiện nay là loại câu có
nhiều phương án lựa chọn, hay dùng nhất là 4 phương án lựa chọn.
1.1.4. Định hướng đổi mới về kiểm tra đánh giá
Phải xác định rằng một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng dạy và
học chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn là do công tác kiểm tra và đánh giá
chưa được hoàn chỉnh. Vì vậy, “việc xây dựng và hoàn chỉnh các phương pháp
kiểm tra đánh giá kết quả học tập ở trường phổ thông đến nay vẫn là một trong
những vấn đề quan trọng nhất” [24, tr. 289].
Kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học là một công việc rất phức tạp và
rất cần thiết. Quá trình đó, nếu được tiến hành một cách khoa học sẽ có ý nghĩa rất
lớn trong việc điều khiển hoạt động dạy học, có tác dụng rất lớn trong việc lĩnh hội,
củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo phát triển trí tuệ cho học sinh. Vì vậy phải đổi
mới cách thức kiểm tra đánh giá, sử dụng kỹ thuật tiên tiến, có tính khách quan và
độ tin cậy cao. Định hướng đó được thể hiện ở các vấn đề sau:
- Về nội dung kiểm tra đánh giá: phải kiểm tra đánh giá theo mục tiêu của môn
học, đồng thời phải đánh giá theo các bậc nhận thức, các bậc năng lực tư duy và
các bậc kĩ năng kĩ xảo mà môn học phải dự kiến người học phải đạt được.
- Về phương pháp kiểm tra đánh giá: cần áp dụng nhiều phương pháp khác nhau
(viết, vấn đáp, trắc nghiệm khách quan, bài tập lớn, tiểu luận, luận văn...)
- Cần dựa vào chuẩn kiến thức các môn học trong chương trình đào tạo đã được
xây dựng thông qua chương trình chi tiết và ngân hàng câu hỏi TNKQ cho tất cả
các môn học và quy định dùng chung cho hệ thống giáo dục phổ thông, đại
học...
- Tổ chức kiểm định chất lượng theo thang bậc chất lượng.
Thực tế cho thấy những năm gần đây Bộ giáo dục và Đào tạo đã từng bước đổi
mới công tác kiểm tra đánh giá nhằm đánh giá cao năng lực tư duy sáng tạo, khả
năng giải quyết vấn đề của thực tiễn cuộc sống có liên quan đến hóa học. Một trong
những phương hướng cải tiến có hiệu quả hiện nay là kết hợp các phương pháp
đánh giá truyền thống và từng bước áp dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
vào tất cả môn học ở các cấp học và ở cả các kỳ thi : tốt nghiệp, tuyển sinh... nhằm
ứng dụng công nghệ thông tin trong các khâu đánh giá kết quả học tập hóa học của
học sinh.
1.2. BÀI TẬP HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.2.1. Khái niệm
Bài tập hóa học là nhiệm vụ học tập mà giáo viên đặt ra cho người học, buộc
người học phải vận dụng các kiến thức đã học hoặc các kinh nghiệm thực tiễn, sử
dụng hành động trí tuệ hay hành động thực tiễn để giải quyết các nhiệm vụ đó nhằm
chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng một cách tích cực chủ động sáng tạo [24].
1.2.2. Tác dụng của bài tập hóa học [4],[12], [24]
- Bài tập hóa học là một trong những phương tiện hiệu nghiệm cơ bản nhất để
dạy học sinh vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế, biến các kiến thức
đó thành kiến thức của chính mình.
- Đào sâu, mở rộng kiến thức đã học một cách sinh động, phong phú thông qua
đó mới nắm vững kiến thức một cách sâu sắc nhất.
- Là phương tiện để ôn tập, hệ thống hóa kiến thức một cách sâu sắc nhất.
- Rèn luyện các kỹ năng hóa học như cân bằng, tính toán, nhận biết...
- Phát triển năng lực nhận thức, trí thông minh cho học sinh.
- Phát huy tính tích cực, tự lực, hình thành phương pháp học tập hợp lý cho
HS.
- Phương tiện để kiểm tra kiến thức, kỹ năng có tác dụng rèn tính kiên nhẫn,
chính xác khoa học và sáng tạo cho học sinh.
1.2.3. Phân loại bài tập hóa học [4], [12], [24]
Có rất nhiều cách phân loại bài tập hóa học. Tùy vào mục đích, nội dung,
tính chất... ta có thể phân các loại như sau:
- Dựa vào mức độ kiến thức: Có dạng bài tập cơ bản hay tổng hợp.
- Dựa vào tính chất của bài tập: Có bài tập định tính hay định lượng.
- Dựa vào mục đích dạy học: Có dạng bài ôn tập, luyện tập, kiểm tra.
- Dựa vào cách tiến hành trả lời: Có dạng TNKQ hay tự luận.
- Dựa vào kỹ năng, phương pháp giải bài tập: Có dạng bài tập lập công thức,
tính khối lượng, thể tích các chất, hiệu suất phản ứng, nhận biết...
1.2.4. Lựa chọn và xây dựng bài tập trong giảng dạy hóa học
1.2.4.1. Lựa chọn và sử dụng bài tập hóa học trong giảng dạy hóa học
a. Lựa chọn bài tập
Trong nhiều năm qua, do yêu cầu luyện thi và tuyển sinh vào các trường đại
học và trung học chuyên nghiệp nên khối lượng bài tập hóa học không ngừng được
bổ sung và có nhiều bài hay, mới có tác dụng tốt.
Trên thị trường sách có rất nhiều sách bài tập hoá học. Vấn đề cần đặt ra là
phải biết lựa chọn để dùng sao cho có hiệu quả nhất.
Việc lựa chọn bài tập cần từ các nguồn sau:
- Các sách giáo khoa hóa học và sách bài tập hóa học.
- Các sách bài tập hóa học trên thị trường sách.
- Các bài tập trong các giáo trình đại học có thể dùng cho học sinh giỏi hoặc
cải biến cho phù hợp chương trình phổ thông.
b. Sử dụng bài tập hóa học trong dạy học hóa học [4], [12]
Ở bất cứ công đoạn nào của quá trình dạy học đều có thể sử dụng bài tập. Khi
dạy bài mới có thể dùng bài tập để vào bài, để tạo tình huống có vấn đề, để chuyển
tiếp từ phần này sang phần kia, để củng cố bài, để hướng dẫn học sinh học bài ở
nhà.
Khi ôn tập, củng cố, luyện tập, kiểm tra đánh giá thì nhất thiết phải dùng bài tập.
Ở Việt Nam khái niệm “bài tập” được dùng theo nghĩa rộng, bài tập có thể là câu
hỏi hay bài toán. Bài tập hóa học được sử dụng để:
- Củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức và hình thành quy luật của hóa học.
- Rèn kỹ năng. Nếu các bài toán hoàn toàn giống nhau chỉ thay số liệu sẽ gây
nhàm chán cho học sinh, nhất là học sinh khá, giỏi. Do vậy cần phải bổ
sung nội dung chi tiết mới, vừa có tác dụng đào sâu kiến thức vừa có tác
dụng gây hứng thú cho học sinh.
- Sử dụng bài tập để rèn tư duy logic.
- Sử dụng bài tập để rèn năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh phát triển thì phát hiện sớm vấn đề và
giải quyết tốt vấn đề là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống. Vì
thế, rèn cho học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề hiện nay cần được đặt
ra như một mục tiêu đào tạo.
1.2.4.2. Xây dựng bài tập hóa học mới
Theo các xu hướng hiện nay:
- Loại những bài toán nghèo nàn về nội dung hóa học, nặng về thuật toán học.
- Loại những bài tập giả định rắc rối xa rời thực tiễn hóa học.
- Xây dựng theo các mẫu bài tập sẵn có hoặc tương tự.
- Tăng cường sử dụng bài tập TNKQ.
- Tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm.
- Xây dựng