Để hoàn thành chương trình học Thạc sỹ ngành QHQT tại Học viện Ngoại giao và bài Luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực tìm tòi của bản thân, tôi còn may mắn nhận được nhiều sự giúp đỡ và đóng góp vô cùng to lớn của các thầy, các cô, bạn bè trong Học viện.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn vô cùng sâu sắc đến TS. Đỗ Sơn Hải, Trưởng khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao Việt Nam, Học Viện Ngoại Giao, người đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này. Thầy đã dành cho tôi lòng nhiệt huyết, sự tận tâm và sự kiên nhẫn không mệt mỏi từ khi tôi còn lúng túng, băn khoăn trong việc triển khai đề tài đến khi tôi hoàn thành luận văn này. Thầy cũng là người truyền cho tôi nhiệt huyết và lòng yêu nghề trong công việc.
Tôi xin gửi đến PGS. TS Nguyễn Thái Yên Hương, trưởng khoa Đào tạo sau Đại học lòng kính trọng và lời cảm ơn chân thành nhất. Sự tận tụy, say mê, nhiệt tình cũng như sự nghiêm khắc của cô đã giúp tôi trưởng thành hơn trong cuộc sống, trong học tập, và đặc biệt tôi đã học tập được rất nhiều điều từ cô. Đồng thời, tôi xin cảm ơn em Hà Huyền Trang vì sự giúp đỡ của em trong suốt quá trình học. Tôi cũng chị Quỳnh, anh Tân – Khoa Đào tạo sau Đại học vì những lời khuyên bổ ích dành cho tôi.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè và những người luôn bên tôi trong suốt thời gian qua. Gia đình là nguồn cổ vũ lớn lao, là nơi chắp cánh cho ước mơ của tôi thành hiện thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
110 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1893 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận vănTác động của hiệp ước Start mới đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ƯỚC START MỚI
ĐẾN VẤN ĐỀ CHỐNG PHỔ BIẾN VŨ KHÍ HẠT NHÂN
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60.31.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội – tháng 7 năm 2011
Có thể tìm hiểu Luận văn tại Thư viện Học viện Ngoại giao - Bộ Ngoại giao
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình học Thạc sỹ ngành QHQT tại Học viện Ngoại giao và bài Luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực tìm tòi của bản thân, tôi còn may mắn nhận được nhiều sự giúp đỡ và đóng góp vô cùng to lớn của các thầy, các cô, bạn bè trong Học viện.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn vô cùng sâu sắc đến TS. Đỗ Sơn Hải, Trưởng khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao Việt Nam, Học Viện Ngoại Giao, người đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này. Thầy đã dành cho tôi lòng nhiệt huyết, sự tận tâm và sự kiên nhẫn không mệt mỏi từ khi tôi còn lúng túng, băn khoăn trong việc triển khai đề tài đến khi tôi hoàn thành luận văn này. Thầy cũng là người truyền cho tôi nhiệt huyết và lòng yêu nghề trong công việc.
Tôi xin gửi đến PGS. TS Nguyễn Thái Yên Hương, trưởng khoa Đào tạo sau Đại học lòng kính trọng và lời cảm ơn chân thành nhất. Sự tận tụy, say mê, nhiệt tình cũng như sự nghiêm khắc của cô đã giúp tôi trưởng thành hơn trong cuộc sống, trong học tập, và đặc biệt tôi đã học tập được rất nhiều điều từ cô. Đồng thời, tôi xin cảm ơn em Hà Huyền Trang vì sự giúp đỡ của em trong suốt quá trình học. Tôi cũng chị Quỳnh, anh Tân – Khoa Đào tạo sau Đại học vì những lời khuyên bổ ích dành cho tôi.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè và những người luôn bên tôi trong suốt thời gian qua. Gia đình là nguồn cổ vũ lớn lao, là nơi chắp cánh cho ước mơ của tôi thành hiện thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
2.3.5. Thúc đẩy ký kết, thực thi các văn kiện pháp lý khác 73
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG THỰC HIỆN HIỆP ƯỚC START MỚI 76
3.1. Những khó khăn trong quá trình phê chuẩn Hiệp ước START mới 76
3.1.1. Về phía Mỹ 76
3.1.2. Về phía Nga 79
3.2. Tương lai của Hiệp ước START mới 81
3.2.1. Một số hạn chế của Hiệp ước START mới 81
3.2.2. Triển vọng hợp tác trong khuôn khổ Hiệp ước START mới và vấn đề chống phổ biến VKHN 87
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ABM
Anti - Ballistic Missile Treaty
Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
CTBT
Comprehensive Nuclear Test Ban Treaty
Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
FMCT
Fissile Material Cutoff Treaty
Hiệp ước cấm sản xuất chất phân hạch phục vụ chế tạo vũ khí hạt nhân
IAEA
International Atomic Energy Agency
Cơ quan năng lượng Nguyên tử Quốc tế
INF
Intermediate Range Nuclear Forces Treaty
Hiệp ước hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn
MIRV
Multiple Independently targetable Reentry Vehicle
Tên lửa mang nhiều đầu đạn có thể tự tách, định vị mục tiêu độc lập
NATO
North Atlantic treaty Ozganization
Tổ chức Hiệp ước Bắc đại tây dương
NPT
Nuclear Non Proliferation Treaty
Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân
PTBT
Partial Test Ban Treaty
Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân từng phần
SALT I, II
Strategic Arms Limitation Treaty
Hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược
SLBM
Submarine – Lauched Ballistic Missile
Tên lửa đạn đạo đặt tại tàu nghầm
SORT
Strategic Offensive Reductions Treaty
Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược
START
Strategic Arms Reduction Treaty
Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược
VKHN
Vũ khí hạt nhân
USD
Đồng Đô – la Mỹ
WMD
Weapond of mass destruction
Vũ khí hủy diệt hàng loạt
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược START mới được Mỹ - Nga ký kết ngày 8/4/2010 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 5/2/2011. Đây là một trong những hiệp ước song phương quan trọng nhất giữa hai cường quốc hạt nhân Mỹ - Nga trong lĩnh vực kiểm soát vũ trang và có ý nghĩa to lớn đối với quá trình chống phổ biến vũ khí hạt nhân của nhân loại.
Trong bối cảnh sau chiến tranh lạnh, nguy cơ phổ biến và rò rỉ kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và vũ khí hạt nhân từ các nhà máy, các phòng thí nghiệm hay thậm chí từ các kho vũ khí của các quốc gia hạt nhân ngày càng gia tăng. Chủ thể muốn tìm kiếm và sở hữu công nghệ hạt nhân không chỉ là các quốc gia đầy tham vọng, mà còn là các chủ thể phi nhà nước như các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, những thành phần khủng bố cực đoan… Nguy cơ về một cuộc chiến hạt nhân toàn diện đã giảm bớt, song nhân loại phải đối mặt với nguy cơ về chiến tranh hạt nhân cục bộ, khủng bố hạt nhân. Mặt khác, sau chiến tranh lạnh, tiến trình chống phổ biến vũ khí hạt nhân chưa thực sự đạt hiệu quả như mong đợi của cộng đồng quốc tế. Các cơ chế đa phương vẫn chưa tìm được các chế tài đủ mạnh để đối phó với các thách thức mới. Thêm vào đó, quá trình đàm phán nhằm cắt giảm hai kho vũ khí lớn nhất thế giới là Mỹ - Nga không tạo ra những khuôn khổ pháp lý phù hợp, mà điển hình là sự thất bại trong việc ký kết hiệp ước START II, START III, việc Mỹ đơn phương rút khỏi Hiệp ước ABM… Chính thực tế này đã khiến việc ra đời và thực thi hiệp ước START mới có ý nghĩa to lớn.
Những vòng đàm phán đầu tiên của Hiệp ước START mới bắt đầu từ cuối năm 2006, song đều thất bại do chính quyền của Tổng thống V. Putin và chính quyền G. Bush không tìm được tiếng nói chung. Các cuộc đối thoại chỉ bắt đầu đạt hiệu quả và đem lại những tiến bộ tích cực khi Tổng thống Obama lên cầm quyền vào năm 2009, thể hiện và muốn hiện thực hóa mục tiêu hướng đến “một thế giới không vũ khí hạt nhân”. Quá trình đàm phán và ký kết hiệp ước START mới được coi là quá trình đấu tranh lợi ích giữa hai bên, đồng thời tác động lên nhiều mặt của tiến trình chống phổ biến vũ khí hạt nhân.
Vậy, câu hỏi đặt ra là tại sao Mỹ - Nga lại ký kết và phê chuẩn Hiệp ước START mới? mục đích của hai bên là gì? Hiệp ước START mới có tác động như thế nào đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân? Tương lai của Hiệp ước mới sẽ ra sao, liệu số phận của Hiệp ước mới có giống như START II năm 1993, hay Hiệp ước ABM?
Lĩnh vực nghiên cứu về vũ khí hạt nhân, phổ biến và chống phổ biến loại vũ khí có tính hủy diệt cao này đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, các nhà nghiên cứu về quan hệ quốc tế trên thế giới. Trong khi đó, tại Việt Nam, việc nghiên cứu vấn đề phổ biến và chống phổ biến hạt nhân lại chưa nhận được sự đầu tư, quan tâm thích đáng. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của Hiệp ước START mới đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp, với hy vọng sẽ đóng góp vào công tác nghiên cứu vấn đề phổ biến và chống phổ biến vũ khí hạt nhân giai đoạn sau chiến tranh lạnh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nội dung của luận văn hướng tới:
Làm sáng tỏ nội dung của Hiệp ước START mới, những điểm mới so với Hiệp ước START I là gì?
Xem xét những tác động của Hiệp ước START mới đối với vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu, tác giả đưa ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Tìm hiểu khái niệm về vũ khí hạt nhân; tính chất và vai trò của loại vũ khí này đối với nền chính trị quốc tế đương đại. Làm rõ nội hàm của hai khái niệm khác là “phổ biến” và “chống phổ biến” vũ khí hạt nhân, qua đó trả lời câu hỏi “tại sao phải ngăn chặn loại vũ khí này lan tràn?”
Lý giải tại sao Mỹ - Nga tiến hành ký kết Hiệp ước START mới?
Nội dung của START mới và những tác động ban đầu của nó, đặc biệt là đối với việc chống phổ biến VKHN?
Đồng thời đánh giá quá trình thực thi Hiệp ước START của Mỹ - Nga gặp phải khó khăn gì? Những hạn chế mà hiệp ước chưa giải quyết được là gì? Và đưa ra dự báo, tương lai Hiệp ước sẽ ra sao?
4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Việc nghiên cứu vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân nói chung thu hút sự quan tâm tương đối lớn của các học giả nước ngoài. Lý giải cho câu hỏi tại sao các quốc gia lại tìm kiếm vũ khí hạt nhân, có tác phẩm của Scott D. Sagan “Why do States Build Nuclear Weapons? Three Models in search of a Bomb” – tác giả đã giải thích tại sao xu hướng phổ biến VKHN ngày càng tăng trong quan hệ quốc tế, các quốc gia đưa ra những lý do gì để phát triển chương trình hạt nhân, cũng như đưa ra những đánh giá về vai trò của VKHN trên trường quốc tế. Những lập luận của tác giả, đồng thời, chính là lý do cản trở quá trình chống phổ biến VKHN trên thế giới.
Đối với vấn đề chống phổ biến VKHN, có thể kể đến bài nghiên cứu Resetting US – Russian Leadership on Nuclear Arms Reductions and Non – Proliferation của các tác giả Steven Pifer, Joseph Cirincione và Clifford Gaddy, trong đó đề cập đến quá trình tái khởi động quan hệ Mỹ - Nga thời gian gần đây và tái xác lập vị trí lãnh đạo của hai cường quốc này trong nỗ lực chung chống phổ biến VKHN trên thế giới. Bài viết cũng đưa ra các đề xuất giúp Mỹ - Nga tăng cường quan hệ và các biện pháp hợp tác vì mục tiêu “thế giới không vũ khí hạt nhân”. Tiếp đó, không thể không kể đến những báo cáo của Cơ quan nghiên cứu của Quốc hội Mỹ với một loạt các bài viết của các chuyên gia về tình trạng kho vũ khí của Mỹ nói riêng và của các nước khác trên thế giới; hay tiến trình thảo luận, đàm phán các hiệp ước… Ngoài ra, các trung tâm nghiên cứu về chính trị và quan hệ quốc tế trên thế giới cũng tiến hành và đóng góp những nghiên cứu riêng về thực trạng phổ biến hạt nhân, các biện pháp cần làm để chống quá trình này như Arms Control Association, Center for Strategic & International Studies, hay Monterey Institue of International Studies…
Riêng đối với Hiệp ước START mới được coi là một trong những thành công của việc hợp tác Mỹ - Nga để cắt giảm đáng kể số lượng vũ khí hạt nhân. Tuy là một hiệp ước mới ra đời song số lượng các bài nghiên cứu về START mới ở nước ngoài là tương đối nhiều. Ví dụ bài viết The Case for the New Strategic Arms Reduction Treaty của nhóm tác giả Tom Z.Collina, Daryl G.Kimball và các nghiên cứu viên của Arms Control Association. Trong đó, điểm qua những nội dung chính của Hiệp ước START mới cùng mối quan hệ Mỹ - Nga trong việc thực thi Hiệp ước. Hoặc bài nghiên cứu SORT-ing Out START: options for US – Russian Strategic Arms Reductions của Stephen J. Cimbala, cho người đọc một cái nhìn sơ lược về nội dung của Hiệp ước START mới cũng như lực lượng hạt nhân của Mỹ - Nga trong tương lai khi thực hiện thành công hiệp ước.
Các tác phẩm, bài nghiên cứu đều thống nhất mối nguy hiểm của vũ khí hạt nhân ngày càng gia tăng và đòi hỏi các quốc gia phải hành động thực chất hơn để ngăn chặn sự phổ biến, lan tràn loại vũ khí này, đặc biệt tránh rơi vào tay những kẻ khủng bố. Đồng thời nêu ra những đóng góp ban đầu của Hiệp ước START mới vào tiến trình chống phổ biến hạt nhân trên thế giới. Tuy nhiên, các tài liệu chưa nêu bật được những hạn chế của START mới, hay nói cách khác, là những mặt chưa thực hiện được của START mới đối với quá trình chống phổ biến VKHN toàn cầu.
Tại Việt Nam, Hiệp ước START mới nói riêng và những vấn đề xung quanh việc phổ biến VKHN nói chung lại là một đề tài khá mới, hiện không có nhiều công trình nghiên cứu hoặc các ấn phẩm dạng sách viết bằng tiếng Việt. Tại trường Đại học Khoa học xã hội Nhân văn Hà Nội có Luận án Tiến sỹ của TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy với đề tài “Hoa Kỳ với quá trình kiểm soát và cắt giảm vũ khí hạt nhân trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945 - 1991)”. Bên cạnh đó, có luận văn thạc sỹ “Chính sách chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt của Mỹ sau sự kiện 11.9.2001” của ThS. Nguyễn Thị Hương, Học viện Ngoại giao. Ngoài ra, cũng đã có một số bài báo, sách và đề tài đề cập gián tiếp đến chủ đề mà Luận văn bàn tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, ký kết và phê chuẩn của Hiệp ước START mới từ năm 2006 đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình viết, tác giả sẽ đề cập đến các nỗ lực, biện pháp của các nước trên thế giới trong các giai đoạn từ trong chiến tranh lạnh, sau chiến tranh lạnh đến nay.
Về đối tượng nghiên cứu: đề tài sẽ nghiên cứu tổng thể lịch sử hình thành Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược Mỹ - Nga, tuy nhiên sẽ tập trung vào Hiệp ước START mới được ký kết năm 8/4/2010.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, cũng như thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trên, Luận văn sẽ sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử: điểm lại lịch sử hình thành và phát triển của các hiệp ước START, từ đó làm cơ sở để phân tích Hiệp ước START mới, lý giải tại sao lại cần hiệp ước START mới.
Phương pháp thống kê: người viết thu thập dữ liệu từ các thông tin chính thức của các cơ quan chính phủ, Quốc hội, các Bộ của Mỹ, Nga hoặc các cơ quan nghiên cứu trên thế giới. Đây là bước cần thiết để xây dựng các giả thiết và chứng minh cho rất nhiều phần trong bài viết.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn cũng phân tích các mặt tích cực, và còn hạn chế của hiệp ước START mới đối với quan hệ Mỹ - Nga nói riêng và đối với tiến trình chống phổ biến VKHN nói chung.
Phương pháp hệ thống: đặt Hiệp ước START mới trong tiến trình chung giải giáp vũ khí của thế giới, để thấy vai trò của Hiệp ước START nằm ở đâu, tác động của START đến quy chế không phổ biến toàn cầu như thế nào.
7. Bố cục và nội dung chính
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, phần chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Hiệp ước START
Chương này sẽ làm rõ một số khái niệm dùng trong bài Luận văn: vũ khí hạt nhân là gì? Tính chất, vai trò của loại vũ khí này trong quan hệ quốc tế; cũng như khái niệm và nội hàm về phổ biến và chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Mặt khác, chương I sẽ đưa ra một bức tranh tổng thể về quá trình đàm phán, ký kết một loạt các hiệp định cắt giảm vũ khí song phương giữa Mỹ và Nga là START I, START II và định hình khuôn khổ START III. Từ đó, có thể thấy START mới là một trong những bước phát triển nữa của việc hợp tác giải giáp vũ khí của Mỹ - Nga.
Chương 2: Hiệp ước START mới và những tác động đến vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân
Đây là phần chính của bài Luận văn. Trong chương này, người viết sẽ đưa ra các cơ sở ký kết hiệp ước nhằm trả lời cho câu hỏi: tại sao Mỹ - Nga lại ký kết START mới? lợi ích của Mỹ và Nga trong việc cắt giảm kho vũ khí hạt nhân của mình là gì? Đồng thời chương II sẽ hệ thống hóa lại các quá trình đàm phán, ký kết hiệp ước START mới giữa Mỹ - Nga, trong đó, người viết có lý giải tại sao có giai đoạn đàm phán START mới không thành công. Người viết cũng nên ra những nội dung cơ bản của Hiệp ước START mới để người đọc có thể hình dung được những lĩnh vực Mỹ - Nga muốn cắt giảm, hạn chế. Từ đó, làm nền tảng để xác định những tác động chính của Hiệp ước đối với tiến trình chống phổ biến VKHN.
Chương 3: Triển vọng thực hiện Hiệp ước START mới
Để có thể dự báo, xác định tương lai của Hiệp ước START và vấn đề chống phổ biến VKHN sẽ đi đến đâu, người viết sẽ nêu ra những khó khăn trong quá trình thực hiện START mới, đặc biệt là việc phê chuẩn Hiệp ước. Bên cạnh đó, chương III sẽ đề cập đến những hạn chế của Hiệp ước START mới trong quá trình thực thi. Từ những dữ liệu về những khó khăn mang tính khách quan, và những hạn chế mang tính chủ quan của Hiệp ước, tác giả sẽ nêu ra triển vọng hợp tác trong khuôn khổ START mới giữa Mỹ - Nga cũng như trong lĩnh vực chống phổ biến VKHN trong thời gian sắp tới./.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP ƯỚC START
1.1. Vũ khí hạt nhân và vấn đề chống phổ biến vũ khí hạt nhân
1.1.1. Vũ khí hạt nhân
* Khái niệm
Vũ khí hạt nhân được biết đến là một trong những loại vũ khí hủy diệt hàng loạt; khi nổ sẽ giải phóng một lượng nhiệt khổng lồ, do chuỗi phản ứng phân hạch hoặc/và nhiệt hạch tạo ra [87]. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương trên phạm vi rộng lớn trong một lần sử dụng, đồng thời có sức công phá mạnh hơn bất kỳ loại vũ khí thông thường nào [3].
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, nghiên cứu hạt nhân đã có những bước phát triển đáng kể, khi mà các nhà khoa học đã giải mã được bí ẩn của sự phân tách hạt uranium. Trước khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ, các nhà khoa học vật lý hàng đầu của Hoa Kỳ, trong đó có Albert Einstein đã cảnh báo chính phủ Mỹ về sự nguy hiểm của bom nguyên tử và khả năng Adolf Hitler – Đức quốc xã có thể chế tạo và sử dụng loại vũ khí này trong chiến tranh. Năm 1939, Chiến tranh thế giới II nổ ra khiến việc nghiên cứu, sáng chế ra VKHN kết hợp chặt chẽ với chính trị, tác động mạnh đến quan hệ quốc tế. Các nước lớn trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Liên Xô thời kỳ này đã đầu tư một lượng lớn nhân lực, vật lực cho việc chế tạo nhằm chiếm được vị trí có lợi trong cuộc chiến [6; 185]. Đặc biệt, sau sự kiện Nhật Bản tấn công Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng tháng 12/1941, Quốc hội Mỹ đã quyết định tài trợ nhiều hơn cho hoạt động nghiên cứu quân sự trong đó có chế tạo bom nguyên tử thông qua “Dự án Manhattan” trị giá 2 tỷ USD. Ngày 16/7/1945, Hoa Kỳ đã thử thành công VKHN đầu tiên mang mật danh “Trinity” tại Alamogordo, bang New Mexico. Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên và duy nhất vào thời điểm đó sở hữu thứ vũ khí mới này.
Sau chiến tranh thế giới II, kho VKHN trên thế giới đã không ngừng gia tăng về số lượng, chủng loại do có nhiều quốc gia đã nghiên cứu thành công loại vũ khí này: Tháng 8/1949, Liên Xô đã thử thành công bom nguyên tử; năm 1953 và 1954, cả Mỹ và Liên Xô đã lần lượt cho nổ thành công một loại VKHN có sức công phá lớn hơn nhiều so với bom nguyên tử - đó là bom khinh khí. Anh được Hoa Kỳ chia sẻ thông tin về dự án Manhattan, cũng đã trở thành nước thứ 3 trên thế giới sở hữu VKHN vào năm 1953. Trong thập kỷ 1950 và 1960, Pháp, Trung Quốc lần lượt gia nhập “câu lạc bộ hạt nhân” trên thế giới; Ấn Độ, Israel, Nam Phi, Pakistan trong thời kỳ này đã tìm cách phát triển VKHN [6; 168].
Các quốc gia không chỉ tìm cách nghiên cứu, chế tạo các loại VKHN khác nhau như bom nguyên tử, bom khinh khí; mà các công cụ vận chuyển hạt nhân cũng được chú ý nâng cấp như máy bay ném bom, tên lửa. Tốc độ, lộ trình của máy bay ném bom, chủng loại, tầm bắn, độ chính xác của tên lửa được nghiên cứu và phát triển không ngừng. Các loại máy bay ném bom chiến lược và tên lửa vượt đại dương có khả năng đưa đầu đạn hạt nhân đến đúng mục tiêu dù cách xa hàng nghìn dặm. Tên lửa mang một hoặc nhiều đầu đạn hạt nhân, tên lửa cơ động, tên lửa hành trình… không chỉ bắn trúng mục tiêu mà còn khiến một quốc gia không thể đề phòng. Tóm lại, vũ khí hạt nhân không chỉ được hiểu là các loại bom gây nổ như bom nguyên tử, bom khinh khí mà còn bao gồm cả các công cụ vận chuyển chúng như tên lửa đạn đạo, máy bay ném bom hạng nặng…
* Tính chất và vai trò của VKHN trong quan hệ quốc tế
Trước hết phải khẳng định, VKHN có tính tàn phá và hủy diệt cao. Vũ khí có sức công phá tương đương với 10 triệu tấn thuốc nổ có thể phá hủy hoàn toàn một thành phố. Nếu sức công phá là 100 triệu tấn, thì có thể phá hủy một vùng với bán kính 100 – 160 km. Loại vũ khí này không chỉ có sức hủy diệt và phá hoại trên quy mô lớn mà còn để lại hậu quả nghiêm trọng đối với con người và môi trường trong hàng chục năm sau [87].
Hai quả bom mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima và Nagasaki ngày 6 và ngày 9 tháng 8 năm 1945 đã chứng minh điều đó. Sau vụ nổ khủng khiếp này, hai phần ba thành phố Hiroshima bị phá hủy với hơn 140.000 người chết và tại thành phố Nagasaki, hơn 80.000 người chết, hàng trăm nghìn người nhiễm phóng xạ, gây tổn thất lớn về cơ sở vật chất [45]. Chỉ riêng hai quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản đã có sức mạnh tương đương với tổng số bom đạn ném xuống các thành phố của Đức trong Chiến tranh thế giới II, bên cạnh đó là những hậu quả lâu dài, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và môi trường mà Nhật Bản ngày nay vẫn đang phải đối phó. Trong khi đó, một quả bom khinh khí có sức mạnh lớn gấp nhiều lần so với bom nguyên tử và tương đương với vài trăm ngàn tấn thuốc nổ thông thường.
Xuất phát từ tính chất hủy diệt ghê gớm của loại vũ khí này, VKHN trở thành một “thủ đoạn quân sự hoàn toàn khác so với vũ khí truyền thống hoặc vũ khí thông thường” [6; 188