Khái niệm trên đã chỉ ra những hoạt động cơ bản mà ngân hàng thương mại thực hiện. Đó chính là:
- Huy động vốn.
- Cho vay vốn.
- Cung cấp các dịch vụ khác về ngân hàng.
Huy động vốn có thể coi là hoạt động cơ bản đầu tiên của ngân hàng thương mại. Từ thuở sơ khai, ngân hàng chính là nơi để cho những người có lượng tiền tạm thời nhàn rỗi gửi vào. Những đối tượng gửi tiền vào ngân hàng là tất cả các cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Họ gửi tiền vào dưới các hình thức ký gửi như mở tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm. Qua thời gian, khi hoạt động của ngân hàng trở nên phong phú hơn, ngân hàng không chỉ dừng lại ở chỗ chờ đợi những người này gửi tiền mà còn dùng nhiều hình thức để chủ động thu hút vốn về mình. Ngoài các biện pháp thông thường để vay vốn ngân hàng còn phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Ngân hàng cũng được vay ngắn hạn từ Ngân hàng Trung ương dưới hình thức tái chiết khấu.
Ngân hàng sử dụng phần lớn số vốn huy động được để thực hiện cho vay nền kinh tế, từ việc hỗ trợ cho nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, các hộ gia đình; nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Các hình thức cho vay cũng vô cùng đa dạng, từ cho vay thông thường đến cho vay chiết khấu, cho vay thấu chi. và cho đến cả hình thức tín dụng thuê mua đang rất phát triển hiện nay. Thật dễ hiểu khi coi ngân hàng như một cái “két đựng tiền khổng lồ” có thể đáp ứng được mọi nhu cầu lớn nhỏ của nền kinh tế mà cho đến nay chưa có ai thay thế được vị trí quan trọng này của nó, nhất là đối với những nước mà thị trường tài chính chưa phát triển như ở nước ta.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì ngân hàng lại càng trở thành một đầu mối quan trọng. Nó không chỉ là trung gian chu chuyển vốn mà còn là trung gian trong nhiều hoạt động khác của các chủ thể kinh tế. Điều này được đặc biệt thể hiện thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng, chuyển tiền từ nơi này đến nơi khác, từ người này sang người khác. Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh, chiết khấu. Ngân hàng cũng không thể bỏ qua một hoạt động hết sức hấp dẫn là hoạt động đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, vào bất động sản. Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nên hiện nay Chính phủ các nước đã có những quy định khắt khe về hoạt động đầu tư của ngân hàng như: phải thành lập các công ty chứng khoán, công ty tài chính trực thuộc thực hiện riêng các hoạt động đầu tư, bảo đảm cho sự an toàn trong hoạt động ngân hàng nói riêng, họat động của nền kinh tế nói chung.
58 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2005 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương 1
Lý LUậN CHUNG Về BảO ĐảM TIềN VAY
TRONG CHO VAY CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm và những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm.
Có rất nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại. Sau đây là khái niệm được chấp nhận rộng rãi nhất:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung cấp một số dịch vụ khác về ngân hàng cho khách hàng.
1.1.1.2. Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Khái niệm trên đã chỉ ra những hoạt động cơ bản mà ngân hàng thương mại thực hiện. Đó chính là:
- Huy động vốn.
- Cho vay vốn.
- Cung cấp các dịch vụ khác về ngân hàng.
Huy động vốn có thể coi là hoạt động cơ bản đầu tiên của ngân hàng thương mại. Từ thuở sơ khai, ngân hàng chính là nơi để cho những người có lượng tiền tạm thời nhàn rỗi gửi vào. Những đối tượng gửi tiền vào ngân hàng là tất cả các cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội... Họ gửi tiền vào dưới các hình thức ký gửi như mở tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm... Qua thời gian, khi hoạt động của ngân hàng trở nên phong phú hơn, ngân hàng không chỉ dừng lại ở chỗ chờ đợi những người này gửi tiền mà còn dùng nhiều hình thức để chủ động thu hút vốn về mình. Ngoài các biện pháp thông thường để vay vốn ngân hàng còn phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi... Ngân hàng cũng được vay ngắn hạn từ Ngân hàng Trung ương dưới hình thức tái chiết khấu.
Ngân hàng sử dụng phần lớn số vốn huy động được để thực hiện cho vay nền kinh tế, từ việc hỗ trợ cho nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, các hộ gia đình; nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Các hình thức cho vay cũng vô cùng đa dạng, từ cho vay thông thường đến cho vay chiết khấu, cho vay thấu chi... và cho đến cả hình thức tín dụng thuê mua đang rất phát triển hiện nay. Thật dễ hiểu khi coi ngân hàng như một cái “két đựng tiền khổng lồ” có thể đáp ứng được mọi nhu cầu lớn nhỏ của nền kinh tế mà cho đến nay chưa có ai thay thế được vị trí quan trọng này của nó, nhất là đối với những nước mà thị trường tài chính chưa phát triển như ở nước ta.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì ngân hàng lại càng trở thành một đầu mối quan trọng. Nó không chỉ là trung gian chu chuyển vốn mà còn là trung gian trong nhiều hoạt động khác của các chủ thể kinh tế. Điều này được đặc biệt thể hiện thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng, chuyển tiền từ nơi này đến nơi khác, từ người này sang người khác... Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh, chiết khấu. Ngân hàng cũng không thể bỏ qua một hoạt động hết sức hấp dẫn là hoạt động đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, vào bất động sản... Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nên hiện nay Chính phủ các nước đã có những quy định khắt khe về hoạt động đầu tư của ngân hàng như: phải thành lập các công ty chứng khoán, công ty tài chính trực thuộc thực hiện riêng các hoạt động đầu tư, bảo đảm cho sự an toàn trong hoạt động ngân hàng nói riêng, họat động của nền kinh tế nói chung.
1.1.2. Nội dung hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Trở lại với hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, có thể nói rằng cho dù có sự phát triển không ngừng của các hoạt động khác thì khi nói đến ngân hàng thương mại người ta không thể không nhắc tới hoạt động này. Trước hết bởi vì đây là hoạt động mang tính truyền thống của ngân hàng, sau đó vì nó là hoạt động sử dụng vốn lớn nhất và mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng, là hoạt động mang tính sống còn, là lý do cơ bản để tồn tại các ngân hàng thương mại. Không thể có ngân hàng nào phát triển mà lại yếu kém trong hoạt động cho vay.
Cho vay thực chất chính là việc ngân hàng chuyển quyền sử dụng một khoản vốn cho một chủ thể khác dựa trên nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Việc chuyển tiền cho chủ thể khác sử dụng là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó để thực hiện được nguyên tắc hoàn trả, vấn đề bảo đảm tiền vay được đặt ra trong cho vay của ngân hàng thương mại và đây cũng là cơ sở để nghiên cứu đề tài: “Những vấn đề cơ bản về bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại” tại ngân hàng công thương Thanh Xuân.
1.2. bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo đảm tiền vay.
1.2.1.1. Khái niệm.
Theo quan điểm truyền thống, bảo đảm tiền vay là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Như vậy chỉ khi có tài sản cụ thể thì khoản cho vay mới được công nhận là có bảo đảm, còn lại thì được coi là không có bảo đảm. Ta hãy phân tích quan điểm này.
Quan điểm này cho thấy rằng đối với một khoản cho vay nếu nguồn thu nợ thứ nhất như lợi nhuận, khấu hao hay thu nhập từ lương, cổ tức... không được thực hiện thì đã có nguồn thứ hai là những tài sản bảo đảm như trên. Thế nhưng câu hỏi đặt ra là giả sử có khách hàng xin vay và có tài sản thế chấp hoặc cầm cố mà mục đích sử dụng không rõ ràng hoặc có mục đích sử dụng nhưng không hợp pháp thì ngân hàng có thể quyết định đồng ý cho vay? Bên cạnh đó không phải lúc nào tài sản bảo đảm cũng thực sự an toàn, chẳng hạn đối với tài sản cầm cố nhưng không có đăng ký quyền sở hữu và lại nhờ quản lý ở kho khách hàng hoặc thuê kho; còn đối với tài sản thế chấp là bất động sản thì luôn tiềm ẩn nguy cơ hao mòn hữu hình và vô hình... Mặt khác nếu chỉ dựa vào lượng tài sản này mà không có các biện pháp thu hồi nợ hoặc không có các biện pháp xử lý, khi xảy ra tình huống bất ngờ làm tiêu hao tài sản của khách hàng thì khoản cho vay đã trở thành nợ khó đòi. Lúc đó thì mục tiêu thu hồi được các khoản nợ là không được bảo đảm. Như vậy quan điểm này là hoàn toàn thiếu sót. Vậy chúng ta sẽ quan niệm bảo đảm tiền vay như thế nào cho đúng? Quay trở lại với lý do đặt ra vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của ngân hàng thương mại. Ta đã khẳng định đó chính là nguyên tắc hoàn trả trong cho vay, tức là các khoản cho vay sau một thời gian đã xác định thì phải được quay về ngân hàng với đầy đủ cả gốc và lãi. Như vậy vấn đề bảo đảm tiền vay phải được thực hiện theo cả một quá trình và nó cần nhiều hơn so với việc chỉ đòi hỏi tài sản cầm cố hay thế chấp. Nó phải là tất cả các biện pháp mà cả ngân hàng và khách hàng phải làm để có được một khoản tín dụng an toàn và hiệu quả. Điều này có nghĩa là khi có một nhu cầu về vốn thì ngân hàng phải thực hiện phân tích, đánh giá khách hàng cũng như phương án sử dụng vốn của khách hàng, đưa ra các phương án trả nợ của khách hàng. Sau khi giải ngân thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi tiến trình sử dụng vốn của khách hàng cũng như các vấn đề liên quan và nếu xảy ra tình trạng mất khả năng trả nợ thì cả hai sẽ phải bàn bạc để đưa đến quyết định cuối cùng. Cũng trong quá trình đó thì nhiệm vụ của ngân hàng trong vấn đề bảo đảm tiền vay chính là phải thực hiện quá trình phân tích thẩm định một cách mau lẹ và chính xác; sau đó phải thực hiện giải ngân đầy đủ, đúng hạn để bảo đảm vốn đến được đúng vào lúc khách hàng cần. Điều này sẽ bảo đảm được tính hiệu quả cho khách hàng trong việc sử dụng vốn và đó cũng chính là cơ sở để khách hàng thu hồi đựơc vốn đem trả cho ngân hàng. Tất cả những điều trên sẽ bảo đảm cho nguyên tắc hoàn trả không bị phá vỡ.
Với sự phân tích ở trên, có thể hiểu rằng “bảo đảm tiền vay chính là tất cả các biện pháp thực hiện để vốn cho vay ra phải quay về với ngân hàng sau một thời gian xác định với đầy đủ cả gốc và lãi”.
1.2.1.2. Đặc điểm.
Theo như sự phân tích ở trên, chúng ta có thể khái quát một số đặc điểm của bảo đảm tiền vay như sau:
a) Bảo đảm tiền vay tồn tại trong mọi quan hệ tín dụng.
Không phải ngẫu nhiên mà ngân hàng trao cho khách hàng của mình sử dụng tiền mà ngân hàng đã phải trả tiền để có được chỉ để nhận được một tờ giấy chứng nhận. Tín dụng có một tính chất đặc biệt là vốn cho vay ra phải được hoàn trả trở lại. Do đó bất kỳ một khoản tín dụng nào mà ngân hàng cấp cho khách hàng cũng cần có bảo đảm.
Tín dụng dựa trên lòng tin của một bên đối với bên kia về khả năng họ sẽ hoàn trả số tiền nhận được cộng với số lãi nhất định đã thoả thuận. Lòng tin này được xây dựng trên cơ sở khả năng tài chính và uy tín của mỗi bên. Có thể không cần tài sản cầm cố hay thế chấp nhưng tuyệt đối không thể thiếu được lòng tin. Cả hai phía đối tác đều đòi hỏi bên kia về khả năng tài chính lành mạnh, khả năng thực hiện đúng những điều khoản hợp đồng. Người cho vay yêu cầu khoản tiền vay được sử dụng đúng mục đích, người đi vay lại yêu cầu người cho vay cung cấp tiền đầy đủ, kịp thời. Chỉ khi bảo đảm được điều đó thì quan hệ tín dụng mới tồn tại. Bởi vậy bảo đảm tiền vay tồn tại trong mọi quan hệ tín dụng.
b) Thành công của khách hàng là sự bảo đảm cao nhất cho khoản vay nhưng yếu tố quyết định cuối cùng lại là đạo đức của người vay.
Tất cả các biện pháp thực hiện đều nhằm mục đích cuối cùng là thu hồi được vốn đã cho vay. Do đó ngân hàng phải thẩm định để lựa chọn dự án khả thi, theo dõi kiểm tra tiến trình sử dụng vốn của khách hàng và phối hợp xử lý nếu có rủi ro xảy ra. Khi dự án triển khai hiệu quả thì không những đem lại thu nhập cho người lao động, đem lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, lợi nhuận cho chủ đầu tư mà còn có tiền để trả cho ngân hàng. Đây chính là điều mà ngân hàng và khách hàng cùng mong đợi. Như vậy thành công của khách hàng chính là sự bảo đảm cao nhất cho các khoản tín dụng.
Song ngay cả trong trường hợp khách hàng thành công thì khả năng ngân hàng không thu được nợ vẫn có thể xảy ra. Nếu khách hàng cố tình trì hoãn việc trả nợ trong trường hợp họ có thể làm được điều đó thì không còn là bảo đảm tiền vay nữa. Yếu tố đạo đức được nói đến ở đây là dù trong trường hợp nào thì người đi vay cũng phải coi bảo đảm tiền vay luôn gắn liền với quá trình thực hiện dự án và gắn liền với sự thành công của mình. Điều này có nghĩa là luôn phải có sự thôi thúc từ chính bản thân họ rằng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của bảo đảm tiền vay.
a) Đối với ngân hàng.
Không phải ngẫu nhiên mà bảo đảm tiền vay là yếu tố được nhắc đến trong mọi quan hệ tín dụng. Và nếu bảo đảm tiền vay thành công, không những ngân hàng bảo đảm được khả năng hoàn trả vốn vay mà còn sản sinh lợi nhuận, bảo đảm hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với những khoản vay mà ngân hàng không đòi hỏi tài sản bảo đảm thì ngân hàng phải thẩm định khách hàng một cách chặt chẽ hơn, nhờ đó mà chất lượng tín dụng được nâng cao, khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng cũng được cải thiện. Mặt khác những tài sản mà lẽ ra doanh nghiệp phải đem bảo đảm sẽ được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt hơn để doanh nghiệp hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Tất cả những điều trên sẽ làm cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng trở nên khăng khít hơn. Đây là một điều mà cả ngân hàng và khách hàng cùng mong đợi.
Đối với những khoản vay mà ngân hàng đòi hỏi tài sản bảo đảm sẽ tạo tâm lý mạnh dạn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay, như vậy sẽ dẫn đến kết quả là ngân hàng mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế.
Cần phải nhắc lại rằng không một khoản tín dụng nào được ngân hàng cấp mà lại không cần bảo đảm. Chỉ như vậy thôi cũng đủ nói lên vai trò to lớn của bảo đảm tiền vay trong quyết định cho vay của ngân hàng.
b) Đối với khách hàng.
Cũng theo như sự phân tích ở trên, khách hàng muốn có được khoản vốn từ ngân hàng thì chỉ có tạo ra sự bảo đảm cho chính khoản tiền mà mình cần. Một số doanh nghiệp có khả năng phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường tài chính nhưng trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển như ở nước ta hiện nay thì tín dụng ngân hàng vẫn là rất quan trọng, còn đối với những doanh nghiệp chưa có khả năng đó thí tín dụng ngân hàng đã trở thành nguồn thiết yếu cho mở rộng sản xuất. Đấy là chưa kể đến việc khi được ngân hàng thẩm định thì đó sẽ là lần xét duyệt thứ hai cho dự án của khách hàng, tạo thêm cơ sở cho sự thành công của dự án.
Đa phần khách hàng đều không mong muốn phải bảo đảm bằng tài sản vì như vậy sẽ bị ràng buộc vào khoản vay nhưng chính sự ràng buộc này lại tạo cho họ động lực để thực hiện tốt dự án và cái lợi đầu tiên và lớn nhất mang lại chính là lợi nhuận cho chính họ.
c) Đối với nền kinh tế.
Vai trò của bảo đảm tiền vay đối với nền kinh tế mang tính gián tiếp. Khi chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế. Nó giúp cho quá trình phân phối lại vốn tiền tệ diễn ra theo đúng yêu cầu: vốn từ nơi tạm thời nhàn rỗi chuyển sang nơi đang cần để mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng tiêu dùng, kích thích tổng cầu. Bảo đảm tiền vay sẽ tránh được sự lãng phí do vốn bị chuyển vào những ngành làm ăn không hiệu quả hay có ý định chiếm dụng vốn cho những mục đích xấu.
Ngành ngân hàng là một ngành kinh doanh gặp rất nhiều rủi ro, mặt khác hoạt động của nó lại mang tính hệ thống cao. Chính nhờ bảo đảm tiền vay đã hạn chế được những mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu, tránh cho nền kinh tế những tổn thất to lớn do sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng.
Tác động tích cực của bảo đảm tiền vay là góp phần củng cố niềm tin của dân chúng vào hệ thống tài chính, tạo điều kiện để họ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn để phát triển sản xuất, đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
Bảo đảm tiền vay có tác dụng rất to lớn đối với nền kinh tế, đây là điều không thể phủ nhận. Vì vậy Chính phủ các nước luôn phải ban hành nhiều văn bản pháp luật cho vấn đề bảo đảm tiền vay trong cho vay của các ngân hàng thương mại.
1.2.3. Phân loại bảo đảm tiền vay.
Theo suốt quá trình phân tích trên chúng ta có thể thấy được có sự phân chia bảo đảm tiền vay thành bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng tài sản hay bảo đảm bằng uy tín.
Song chúng ta cũng cần phải thống nhất rằng, trong nền kinh tế, uy tín mà mỗi doanh nghiệp có được cũng chính là một loại tài sản và nó tồn tại ở dạng một loại tài sản vô hình. Nhưng ở bài viết này, người viết đứng trên giác độ một nhà ngân hàng, tức là chỉ những tài sản có thể trở thành nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ mới được coi là tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay.
1.2.3.1. Bảo đảm bằng tài sản.
Đây là hình thức mà trong đó ngân hàng (đóng vai trò là chủ nợ) được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của bên bảo đảm nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp con nợ không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Trong trường hợp này mối quan hệ bảo đảm giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ thông qua tài sản bảo đảm. Thông qua mối quan hệ này ngân hàng sẽ có quyền định đoạt đối với số tài sản đó.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - một lĩnh vực chứa đựng rất nhiều rủi ro, do đó ngân hàng được pháp luật giao cho một đặc quyền trong việc xử lý nợ đối với những tài sản bảo đảm trong trường hợp con nợ không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là đã bảo đảm chắc chắn cho khả năng thu nợ của ngân hàng mà còn tuỳ thuộc vào khả năng của ngân hàng trong khi đánh giá giá trị của tài sản bảo đảm theo sự biến động của thời gian cũng như khả năng bảo đảm của chúng. Đây chính là một khó khăn lớn đặt ra cho ngân hàng.
Chúng ta có thể chia hình thức bảo đảm bằng tài sản thành hai loại, đó là: bảo đảm bằng chính tài sản của người đi vay và bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba (người bảo lãnh).
a) Bảo đảm bằng tài sản của chính người đi vay.
* Cầm cố.
Cầm cố là hình thức theo đó người đi vay phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thường là thời hạn vay vốn).
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ hầu như không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ các chứng khoán, hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quý... Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Đối với hàng hoá, ngân hàng thường chấp nhận các loại ít chịu tác động của môi trường trong thời gian cầm cố.
Khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm (có thể là nắm giữ tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản) là không an toàn thì ngân hàng sẽ yêu cầu cầm cố, thường đó là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng.
Khi cho vay dựa trên tài sản cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của giấy tờ, giá trị thị trường khi phát mại... Ngân hàng cùng khách hàng định giá vật cầm cố, ký hợp đồng cầm cố, quy định nghĩa vụ của các bên trong quá trình cầm cố, quyền phát mại tài sản cầm cố.
* Thế chấp.
Thế chấp là hình thức theo đó người đi vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành bảo đảm cho các khoản cho vay của ngân hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động, những tài sản này ngân hàng không thể cầm cố. Các tài sản này thường cồng kềnh, phân tán. Hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhượng cũng không đơn giản. Trừ các ngân hàng, các công ty tài chính có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hoá và tài sản cố định. Vì vậy, bảo đảm bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá trị của loại tài sản này thường cao nên doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn.
Bảo đảm bằng thế chấp cho phép người vay sử dụng tài sản bảo đảm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả năng kiểm soát
tài sản bảo đảm của ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi cho vay dựa trên bảo đảm bằng thế chấp, ngân hàng phải xem xét kỹ vật thế chấp. Trong hợp đồng thế chấp (ký cùng với hợp đồng vay vốn), phải có phần mô tả vật thế chấp. Như vậy, ngân hàng cần phải có (hoặc thuê) các nhà chuyên môn đủ khả năng đánh giá tài sản bảo đảm. Nếu định giá quá cao, quy mô tài trợ có thể lớn, có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại, nếu định giá quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Sau khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận về nội quy sử dụng bảo đảm, quyền của ngân hàng giám sát bảo đảm, phát mại bảo đảm khi khách hàng vi phạm hợp đồng tài trợ.
b) Bảo đảm bằng tài sản của người bảo lãnh.
Người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với những người bảo lãnh chưa có uy tín, ngân hàng đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh đó. Thực chất, việc phân chia tài sản bảo đảm theo mức độ trực tiếp hay gián tiếp như trên chỉ có ý nghĩa đối với khách hàng, còn đối với ngân hàng thì dù đó là bảo đảm bằng tài sản của khách hàng hay của người bảo lãnh, ngân hàng cũng có quyền như nhau đối với tài sản này
trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
* Hiện nay việc bảo đảm bằng tài sản còn có hình thức mới đó là bảo đảm bằng tài sản được hình thành từ vốn vay, tức là khách hàng dùng chính tài sản có được do đi vay để bảo đảm cho khoản tiền vay. Đây là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc khách hàng bán tài sản được hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi khách hàng không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài sản này không bảo đảm cho ngân hàng thu đủ cả gốc lẫn lãi. Hình thức này
được áp dụng cho khách hàng mà