Ngân hàng thƣơng mại và vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1. Khái niệm và vai trò của NHTM
- Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền
với phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM đã tác động rất lớn
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Ngược lại kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì
NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không
thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.[1, Tr.11]
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính”.[1,Tr.11]
69 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 6145 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận chung về chất lượng huy động vốn của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƢƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.1. Ngân hàng thƣơng mại và vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1. Khái niệm và vai trò của NHTM
- Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền
với phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM đã tác động rất lớn
và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Ngược lại kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì
NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không
thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.[1, Tr.11]
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính”.[1,Tr.11]
Ở Việt Nam theo điều 4, khoản 3 Luật các tổ chức tín dụng (Luật số
47/2010/QH12) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011 có đưa ra khái niệm như
sau: “NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Trong đó, “hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường một hoặc một số
nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung
cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
- Vai trò của NHTM
Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng.
Thứ nhất, NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
2
NHTM có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các dự án chương trình xây
dựng cơ bản, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước, góp phần giám sát tài
chính quốc gia trong quá trình triển khai các hoạt động tiền tệ tín dụng và thanh toán.
Thứ hai, NHTM vừa là nơi tạo ra môi trường vừa là nơithực thi chính sách tiền tệ
quốc gia
Chính sách tiền tệ quốc gia do Ngân hàng trung ương chủ trì xây dựng và điều
hành thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở,... Ngân hàng thương mại chính là “môi trường”
để Ngân hàng trung ương sử dụng thực thi các công cụ này. Ngân hàng thương mại
phải chấp hành những quy định của Ngân hàng trung ương về các công cụ chính sách
tiền tệ, là cầu nối chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế- xã
hội.
Thứ ba, NHTM là cầu nối giữa kinh tế quốc dân với nền kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế tất yếu. Quan hệ giữa các nước trên
mọi lĩnh vực đang ngày càng phát triển, nhất là trong quan hệ kinh tế. NHTM với tiềm
lực về vốn, với các dịch vụ ngân hàng hiên đại, đã đang là cầu nối hỗ trợ có hiệu quả
và nâng cao sức cạnh tranh cho mọi thành phần kinh tế của quốc gia với thị trường
quốc tế, tạo cho các cá nhân, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế- xã hội thực hiện các
hợp đồng kinh tế, các dịch vụ với đối tác nước ngoài một cách nhanh chóng thuận tiện
và an toàn.
1.1.2. Khái niệm và phân loại vốn của NHTM
- Khái niệm vốn của NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn. NHTM
với các chứcnăng cơ bản là: trung gian tài chính, trung gian thanh toán và chức năng
tạotiền. Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách cóhiệu
quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi NHTM phải có một lượng vốn hoạt động nhất định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau:
“Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do bản thânNHTM tạo lập hoặc huy
động được dùng để cho vay, đầu tưhoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác”.
[ 2, Tr. 29]
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của NHTM là bao
gồm: vốn riêng do các chủ sở hữu đóng góp, vốn được tạo ra trong quá trình kinh
doanh dưới dạng lợi nhuận được giữ lại và vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức/ cá
Thang Long University Library
3
nhân trong nền kinh tế. Nguồn vốn mà NHTM tạo lập sẽ có một phần thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng được chủ sở
hữu của các nguồn vốn đó gửi vào Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau.
Hay nói cách khác, họ chuyển quyền sử dụng khoản vốn tiền tệ đó cho ngânhàng và
đổi lại ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu nhập. NHTM đứng ra huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi và thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng sẽ cung cấp vốn
cho các tổ chức/ cá nhân khác trong nền kinh tế đang gặp khó khăn về vốn. Ở đây,
Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại khoản vốn tiền tệ đó, kết quả
là làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích hoạt động sản xuất kinh
doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động này lại quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các
hoạt động và quyết định đối với việc thựchiện các chức năng của NHTM.
- Phân loại vốn của NHTM [1, Tr.27- 33]
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm 2 loại chính: Vốn chủ sở hữu và
vốn nợ.Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt
độngcủa ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanhcủa
NHTM.
Ngoài ra, NHTM còn có một số nguồn vốn khác như vốn tài trợ, vốn đầu tư phát
triển, vốn ủy thác đầu tư để cho vay theo chính sách
+ Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải
có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình
thành trang thiết bị, cơ sở vật chất, nhà cửa cho ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng,
nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở
hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Đây là nguồn vốn khá quan trọng, nó tạo uy tín cho chính ngân hàng; đồng thời, tạo
được cảm giác an toàn cho khách hàng khi đến giao dịch.
Vốn chủ sở hữu là lượng vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng thương mại.
Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng, tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Vốn chủ sở hữu của NHTM gồm: vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phong tài
chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia.
Vốn điều lệ là loại vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của ngân hàng thương
mại. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác
4
nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp (vốn của
Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần thì do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ
phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp. Ngân hàng tư
nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. Vốn điều lệ của từng loại ngân hàng thương mại
không được thấp hơn mức vốn phát định mà pháp luật quy định cho từng loại ngân
hàng thương mại.
Các quỹ dự trữ: Để duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh các NHTM được
trích lập các quỹ dự trữ. Tùy theo quy định của từng của từng thời kỳ về mức độ trích
lập, quy mô, mục đích sử dụng. Quỹ bổ sung vốn điều lệ hàng năm được trích theo tỷ
lệ nhất định từ lợi nhuận sau thuế (theo nghị định 146/NĐ/CP ngày 23/11/2005 mức
trích lập là 5% lợi nhuận sau thuế, mức tối đa của quỹ này bằng mức vốn điều lệ thực
có). Quỹ dự phòng tài chính là các khoản dự phòng tổn thất, được trích lập hàng năm
để bù đắp thua lỗ (mức dự trữ không vượt quá 25% vốn điều lệ của NHTM). Quỹ đầu
tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, các quỹ này được trích lập và sử dụng
theo quy định của pháp luật.
Vốn cấp 2 bao gồm các khoản như giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định
giá lại theo quy định của pháp luật (50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định
được định giá lại); giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được đánh giá lại
theo quy định(40% phần giá trị tăng thêm của loại chứng khoán đầu tư); trái phiếu
chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn các điều kiện
theo quy định; các công cụ nợ khác đáp ứng các điều kiện của pháp luật; quỹ dự phòng
chung (tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro).
+ Vốn nợ
Vốn nợ của NHTM được tạo lập bằng cách huy động từ tiền gửi, phát hành các
giấy tờ có giá, vay của các tổ chức tín dụng khác, vay của Ngân hàng trung ương và từ
các nguồn khác.
Vốn huy động từ tiền gửi
Vốn huy động là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân
hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và
thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh
nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
tiền gửi của ngân hàng khác
Thang Long University Library
5
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn): là loại tiền gửi mà khách hàng có thể
gửi vào và rút ra bất kỳ lúc nào, lãi suất thấp, được sử dụng để thanh toán cho các
hoạt động mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ và các khoản chi khác Với loại tiền
gửi này, khách hàng được sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt:
séc, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán
Tiền gửi có kỳ hạn: là những khoản tiền gửi vào ngân hàng có sự thỏa thuận trước
về thời hạn rút tiền.
Tiền gửi tiết kiệm: là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng
cá nhân.
Tiền gửi khác: Các NHTM còn huy động các khoản tiền gửi khác như từ các tổ
chức tín dụng khác; tiền gửi của kho bạc Nhà nước; tiền gửi của các đoàn thể xã hội
Vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng
thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, ngân hàng trung ương thường được quy định
tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai
đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị
hạn chế. Các ngân hàng có thể vay của các tổ chức tín dụng khác và của ngân hàng
trung ương; vay trên thị trường vốn (phát hành các giấy tờ có giá).
Vay ngân hàng Nhà nước (vay ngân hàng trung ương)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết các nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), NHTM thường
vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái cấp
vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành
tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết
khấu tại NHNN. Thông thường, NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có
chất lượng (thời hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN
trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay
dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa ngân hàng
với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có
dự trữ vượt yêu cầu do gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay
sẽ sẵn lòng cho ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.
Trong nhiều trường hợp, nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN.
6
Hình thức vay này rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng
cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc
được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả dự trữ của ngân hàng cho
vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát
hành các giấy tờ có giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn để huy
động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay trung và dài hạn và các
nhu cầu đầu tư khác. Những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ có khả năng
vay được nhiều hơn các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng nhỏ thường vay gián tiếp
thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng
vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng
chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối
phức tạp, các NHTM cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá,
các vấn đề chuyển nhượng, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp.
Nguồn vốn khác
Ngoài các loại vốn được tạo lập trên, NHTM còn tạo lập vốn từ những nguồn
khác như:
Vốn ủy thác: Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ như: ủy thác cho vay,
ủy thác đầu tư, cấp phát, giải ngân và thu hộ Các dịch vụ này làm gia tăng nguồn
vốn ngân hàng thương mại.
Vốn trong thanh toán là số vốn có được do ngân hàng thương mại làm trung gian
thanh toán.
1.1.3. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM[2, Tr.30-31]
- Vốn là cơ sở nền tảng để NHTM hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn, ngoài
lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác. Ngân hàng
đi vay để cho vay vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà cho vay. Nguồn
vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Nói cách khác,
không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của
mình. Do đó, ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong
suốt quá trình hoạt động của mình.
- Mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của NHTM
Thang Long University Library
7
Vốn của ngân hàng quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng
có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được nhiều vốn
ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các quyết định định đầu tư, các hình thức tín dụng
linh hoạt. Nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi dào chắc chắn sẽ đáp ứng được nhu
cầu tín dụng, làm tăng quy mô tín dụng và các dịch vụ ngân hàng. Chính vì vậy, càng
khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao uy tín, tạo ra niềm tin đối với khách hàng
Trước diễn biến bất lợi của nền kinh tế như hiện nay thì vốn là điều kiện để các ngân
hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng
cường khả quan hệ hợp tác; đồng thời, nó lôi khéo khách hàng mới, giữ chân các
khách hàng truyền thống. Doanh số tăng lên thì cũng làm nguồn vốn của ngân hàng
tăng lên. Vốn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các
ngân hàng khác như: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi Các
dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.
Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh với quy mô
ngày càng mở rộng. Từ đó, nâng cao vị thế của mình trên thương trường. Thực tế
chứng minh, các ngân hàng lớn trên thế giới đều là các ngân hàng có uy tín, luôn được
ca ngợi và nể trọng, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm và thỏa mãn khi đến giao
thiệp với ngân hàng.
1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.1. Khái niệm hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng
nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để Ngân hàng có thể thực hiện
các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách
hàng.
Có thể tạm thời đưa ra định nghĩa như sau: “Hoạt động huy động vốn của các
NHTM là hoạt động mà trong đó các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ
các chủ thể khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó
theo đúng các quy định pháp luật”. [2, Tr. 33]
Nghiệp vụ huy động vốn có thể hiểu là nghiệp vụ mà ngân hàng thông qua uy tín
và các hoạt động kinh doanh của mình tiến hành huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ
các thành phần kinh tế trong xã hội, tạo ra nguồn vốn kinh doanh cho mình, góp phần
ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát,
1.2.2. Tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn [2, Tr. 33-35]
8
Hoạt động huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho Ngân hàng
nhưng nó là hoạt động rất quan trọng. Không có hoạt động huy động vốn xem như
không có hoạt động của NHTM. Một NHTM khi được cấp phép thành lập, phải có vốn
điều lệ theo quy định. Tuy nhiên vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ
sở, văn phòng, máy móc, thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để Ngân
hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như cấp tín dụng và các dịch vụ khác
của Ngân hàng. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này Ngân hàng phải huy động
vốn từ khách hàng. Do vậy, hoạt động huy động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với nền
kinh tế, đối với bản thân NHTM cũng như đối với khách hàng.
- Đối với nền kinh tế:
Hoạt động huy động vốn của NHTM đã góp phần thực hiện chính sách tiền tệ,
kiềm chế lạm phát. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy: để ổn định tiền tệ,
kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính,
tiền tệ và một trong những biện pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng cường vốn
trong nền kinh tế nhất là nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM. Thông qua các
nghiệp vụ: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay ngân hàng đã huy động
được một lượng vốn khá lớn trong nền kinh tế, giúp giảm bớt lượng tiền mặt lưu
thông, qua đó góp phần giảm áp lực tăng giá cả từ đó giúp ổn định giá trị đồng nội tệ.
Qua hoạt động huy động vốn sẽ giúp huy động được các nguồn vốn nhỏ lẻ trong
xã hội phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế quốc dân, đóng
góp tích cực cho sự nghiệp Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Bởi lẽ, nó khuyến
khích dân cư, các tổ chức kinh tế tăng cường tiết kiệm, tích lũy tiêu dùng từ đó tăng
nguồn nội lực cho quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, mang lại cho họ
một khoản thu nhập từ lãi, qua đó góp phần ổn định, nâng cao đời sống cho người gửi
tiền, kích thích tiêu dùng làm tăng sức mua của xã hội.
Hoạt động huy động là cơ sở cho hoạt động cho vay mà từ đó các dự án khả thi
được thực hiện khiến cho các ngành nghề mới được ra đời, các doanh nghiệp mở rộng
sản xuất kinh doanh tạo thêm công ăn việc làm giúp tăng thêm thu nhập, cải thiện đời
sống cho người lao động.
Ngoài ra, hoạt động huy động vốn qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá, NHTM
đã tạo thêm hàng hóa cho thị trường vốn, thúc đẩy thị trường tài chính, tiền tệ phát
triển.
- Đối với bản thân NHTM:
Hoạt động huy động vốn giúp NHTM mở rộng quan hệ với nhiều đối tượng
khách hàng, biết được nhu cầu về sả