Từ năm 1986, với chủ trương đổi mới tổ chức và quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt nam đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Với việc đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý của Nhà nước đã tạo cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh trong cơ chế thị trường, đồng thời đảm bảo sự điêù tiết của Nhà nước. Nhưng với quyền tự chủ kinh doanh của mình, các doanh nghiệp càng phải cạnh tranh nhau gay gắt và cố gắng trụ vững, phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Muốn đạt được điều đó các doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả kinh doanh ngày càng cao qua mỗi kỳ hoạt động sản xuất. Chỉ có đạt được hiệu quả kinh doanh cao sau mỗi kỳ hoạt động sản xuất các doanh nghiệp mới có điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng và thực hiện sự phân phối hài hoà các lợi ích: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động.
Do đó, lúc này nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được coi là một mục tiêu kinh tế quan trọng, mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp đều phải quan tâm đến. Nhưng trong điều kiện nguồn lực của các doanh nghiệp ngày càng khan hiếm thì làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề không đơn giản.
Công ty Thăng Long cũng không nằm ngoài quy luật đó. Từ khi thành lập cho đến nay, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng được nâng cao. Nhưng để duy trì và phát triển trong điều kiện hiện nay, Công ty cần phải cải tiến và nâng cao hơn nữa các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, qua thực tập ở Công ty Thăng Long – Bộ quốc phòng cùng sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn, em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Thăng Long - Bộ quốc phòng”.
86 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Thăng Long - Bộ quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Từ năm 1986, với chủ trương đổi mới tổ chức và quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt nam đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Với việc đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý của Nhà nước đã tạo cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh trong cơ chế thị trường, đồng thời đảm bảo sự điêù tiết của Nhà nước. Nhưng với quyền tự chủ kinh doanh của mình, các doanh nghiệp càng phải cạnh tranh nhau gay gắt và cố gắng trụ vững, phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Muốn đạt được điều đó các doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả kinh doanh ngày càng cao qua mỗi kỳ hoạt động sản xuất. Chỉ có đạt được hiệu quả kinh doanh cao sau mỗi kỳ hoạt động sản xuất các doanh nghiệp mới có điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng và thực hiện sự phân phối hài hoà các lợi ích: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động.
Do đó, lúc này nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được coi là một mục tiêu kinh tế quan trọng, mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp đều phải quan tâm đến. Nhưng trong điều kiện nguồn lực của các doanh nghiệp ngày càng khan hiếm thì làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề không đơn giản.
Công ty Thăng Long cũng không nằm ngoài quy luật đó. Từ khi thành lập cho đến nay, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng được nâng cao. Nhưng để duy trì và phát triển trong điều kiện hiện nay, Công ty cần phải cải tiến và nâng cao hơn nữa các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, qua thực tập ở Công ty Thăng Long – Bộ quốc phòng cùng sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn, em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Thăng Long - Bộ quốc phòng”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Chương II: Đánh giá về thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Thăng Long -Bộ quốc phòng.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Thăng Long - Bộ quốc phong.
Chương I:
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển
I, Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả:
1, Khái niệm:
Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Nếu ký hiệu:
K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau
C: là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau.
E: là hiệu quả.
Ta có công thức hiệu quả chung là:
E=K- C (1) Hiệu quả tuyệt đối
E=K/C (2) Hiệu quả tương đối
Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu.
2, ý nghĩa:
Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án hành động.
3, Các khái niệm hiệu quả:
Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều khái niệm khác nhau.
a, Hiệu quả tổng hợp:
Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó.
b, Hiệu quả kinh tế:
Là hiệu quả nếu chỉ xét trên khía cạnh kinh tế của vấn đề, là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau.
Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó.
c, Hiệu quả chính trị xã hội:
Là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị xã hội. Chẳng hạn, giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, môi trường.
d, Hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp:
Hiệu quả trực tiếp: là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án, một doanh nghiệp ( một đối tượng ).
Hiệu quả gián tiếp: là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một dối tượng khác.
Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt những dự án khác. Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiệu quả của các dự án khác là hiệu quả gián tiếp
e, Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối:
Hiệu quả tuyệt đối và tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số giữa kết quả và chi phí.
Lợi nhuận ròng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt đối, tỉ suất lợi nhuận là hình thức của hiệu quả tương đối
f, Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân:
Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả ( lợi ích ) và bỏ chi phí để có được kết quả đó, có khái niệm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Hiệu quả tài chính:
Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất - kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến việc thu, chi có liên quan trực tiếp.
Hiệu quả kinh tế quốc dân:
Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Chủ thể của hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người đại diện cho nó là Nhà nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân:
Hiệu quả tài chính là mối quan tâm của các doanh nghiệp hoặc của những nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là Nhà nước. Hiệu quả tài chính được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, còn hiệu quả kinh tế quốc dân được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu quả tài chính xét theo quan điểm bộ phận, còn hiệu quả kinh tế quốc dân xét theo quan điểm toàn thể.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
g, Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài:
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong khoảng thời gian ngắn hay dài hình thành khái niệm hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài.
Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn.
Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài.
II, Hiệu quả kinh tế và vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh:
1, Khái niệm và bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
1.1, Khái niệm:
Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ( doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty công ty cổ phần,...) đều có mục tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, trước hết mọi doanh nghiệp phải xác định cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp thích ứng với những biến động của thị trường, phải tiến hành có hiệu quả các hoạt động quản trị nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào và trong quá trình đó luôn phải kiểm tra xem phương án kinh doanh đang tiến hành có hiệu quả không. Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như của từng lĩnh vực, từng bộ phận công tác nói riêng doanh nghiệp không thể không chú ý đến việc tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh tế phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh tế song rất khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh tế. Có thể xem xét đến một vài quan điểm mang tính chất đại diện sau:
Quan điểm cho rằng: “ Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó.”
Một quan điểm khác cho rằng: “Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí“. Công thức biểu diễn phạm trù hiệu quả theo quan điểm này là:
H=GK/GC
H: Hiệu quả kinh tế.
GK: Phần gia tăng của kết quả sản xuất
GC: Phần gia tăng của cho phí sản xuất
Có quan điểm lại cho rằng: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Một quan điểm khác đề cập đến hiệu quả kinh tế ở dạng khái quát hơn: “Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt dược và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.”
Trong từ điển kinh tế của Manfred Kuhn tính hiệu quả cũng được xác định bằng cách lấy kết quả ( tính theo đơn vị giá trị ) chia cho chi phí kinh doanh. Quan điểm này rất chính xác vì nó đề cập ngay đến kết quả và chi phí.
Wohe và Doring đưa ra hai khái niệm hiệu quả là hiệu quả tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả tính bằng đơn vị giá trị hoàn toàn khác nhau: “ Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật ( chiếc, kg,...) và lượng các nhân tố đầu vào ( giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu,...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật hoặc được gọi là năng suất.” và “ Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh khác chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về giá trị nếu một sản lượng xác định có thể đạt được bằng nhiều sự kết hợp các yếu tố sản xuất khác nhau và để xác định tính hiệu quả về mặt gía trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền.”
Khái niệm chung về hiệu quả kinh tế: “ Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng ( hoặc một quá trình kinh tế ) phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực ( nhân tài, vật lực, tiền vốn ) để đạt được mục tiêu xác định.”
Công thức biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế:
H= K/C (1)
Như vậy, có thể khái niệm ngắn gọn: Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Quan điểm này đã đánh giá tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quản điểm như thế hoàn toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Từ khái niệm trên, chúng ta hiểu hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh tế cũng hoàn toàn đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng của các hoạt động kinh tế, nâng cao trình độ lợi dụng các nguồn lực ( lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn ) trong hoạt động kinh tế nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định.
1.2, Bản chất:
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị,nguyên vật liệu và vốn ) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực tiễn đã tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, khi đó đã coi kết quả là mục tiêu, mục đích và coi hiệu quả cũng là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp luận giải quyết vấn đề: đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả kinh tế. Đây là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định,kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong, đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận,...và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm,... Như thế kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả ( đầu ra ) và chi phí (các nguồn lực đầu vào ) để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vấn đề đặt ra là: Hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả của sản xuất kinh doanh nói riêng là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh ? Trước tiên, hiệu quả kinh tế phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả kinh tế. Từ đó có thể có các biện pháp nhằm đạt mục tiêu của doanh nghiệp ở mức cao hơn với chi phí về nhân, tài, vật lực và tiền vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
2, Đặc điểm của hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt dược từ hoạt động sản xuất ( doanh nghiệp sản xuất ) hoặc kinh doanh ( doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, ...) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít khi gặp doanh nghiệp luôn luôn xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp thu được ở bất kỳ một thời đỉểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong các doanh nghiệp thường có sản phẩm sở dang, bán thành phẩm,... Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không phải chỉ tạo ra kết quả ( sản phẩm, dịch vụ ) mà còn phải bán được các kết quả đó và quá trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng lại tiêu thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được kết quả ( mục tiêu ). Nếu xét trên giác độ giá trị, đại lượng kết quả của sản xuất kinh doanh không phải là đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo gía trị - đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường. Mặt khác, chính hoạt động của con người là luôn nhằm đến và đạt đến kết quả nhất định, song không phải lúc nào con người cũng nắm chắc được, biết hết được các kết quả do chính hành động của con người gây ra. Tất cả các phương thức sản xuất đã có chỉ nhằm đạt được những hiệu quả bổ ích gần nhất và trực tiếp nhất của lao động. Còn với những hiệu quả sản xuất xa xôi, sau này mới xuất hiện và chỉ có tác dụng khi nó tái diễn lại nhiều lần và tích tụ thêm lên mãi, thì người ta hoàn toàn không chú ý đến. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm trù phức tạp mà không phải lúc nào chúng ta cũng đánh giá được nó một cách đầy đủ.
Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trên phương diện lý thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng tài nguyên, chi phí “thực” để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó không thể xác định được trong thực tiễn. ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị nguyên vật liệu mỗi loại không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi đó, ở mọi doanh nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên quan đến một quá trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một cách chính xác vào một quá trình kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét trên phương diện giá trị, chi phí kinh doanh thường được hiểu là gí trị của toàn bộ tài nguyên đã sử dụng trong kinh doanh. Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu vào dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là không xác định được trong tính toán bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn hơn nhiều vì nó hàm chứa rất nhiều yếu tố chủ quan của con người - chi phí là chi phí tính toán. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh con người ngày càng đưa chi phí tính toán tiếp cận đến chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa, không những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới đem lại kết quả cho doanh nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt động xã hội như : giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ,... có tác động không nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí này rất khó tính toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt khác, trong trực tế khi ra quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường hướng vào mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi phí biên cá nhân ( MPC ) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn đến sự tách biệt giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội.Để rút ngắn sự tách biệt này, các biện pháp can thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy rằng khi doanh nghiệp ra quyết định kinh doanh theo hướng giảm chi phí biên cá nhân so với chi phí biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối với các doanh nghiệp sản xuất khác cũng như đối với người tiêu dùng và trong nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân doanh nghiệp với tư cách một thành viên trong đó. Nhiều doanh nghiệp cố tình giảm thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường, sự ô nhiễm ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực rộng lớn và cuối cùng dẫn đến sự đóng cửa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp pháp luật. Như thế kết quả và hiệu quả đạt được trước mắt của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm chí phi hiệu quả kinh tế nếu xét trong thời gian dài.
Nghiên cứu đặc điểm của phạm trù hiệu quả còn cần phải lưu ý rằng giữa hai phạm trù hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh vừa khác biệt nhau lại vừa có quan hệ biện chứng.
3, Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay:
Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất, đưa ra phương pháp đúng đắn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Với tư cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi hoạt động của toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Và do phạm trù hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt nên trong nhiều trường hợp người ta coi nó không chỉ n