Tài nguyên của mỗi quốc gia vốn là “của trời cho”. Có những quốc gia may mắn
hơn những quốc gia khác khi đƣợc sinh sống trên những vùng đất giàu có tài
nguyên. Nhƣng không phải quốc gia nào có nhiều tài nguyên cũng trở nên giàu có.
Theo báo cáo của Quỹ quốc tế bảo vệ động vật hoang dã (WWF), con ngƣời đang
sử dụng nguồn Tài nguyên thiên nhiên ở tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với khả
năng sản xuất ra nguồn tài nguyên của hành tinh. Theo báo cáo này, hiện nay con
ngƣời tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của trái
đất. Sự tiêu thụ nhiên liệu nhƣ than, khí và dầu lửa cũng tăng khoảng 700% từ năm
1961-2000. Bên cạnh đó là những hậu quả tiềm tàng của biến đổi khí hậu, cùng với
những mâu thuẫn bắt nguồn từ những nhu cầu đối nghịch của những nhóm lợi ích
xung quanh nguồn Tài nguyên thiên nhiên (các nhóm sử dụng nguồn Tài nguyên
giá trị cao nhƣ khoáng sản, kim loại, đá, các chất có nguồn gốc Hydrocacbon (dầu
mở, khí đốt) và gỗ; các nguồn tại nguyên quý hiếm nhƣ đất đai, rừng và động vật
hoang dã; các nền kinh tế phụ thuộc hàng hoá thô cộng với quản lý ko minh bạch
dẫn đến tham nhũng).
Việt nam là một quốc gia đang phát triển, nguồn lực tri thức còn hạn chế, chƣa
sở hữu những bản quyền công nghệ tiên tiến, nội lực tài chính còn hạn hẹp, tài
nguyên thiên nhiên trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong cuộc đua
tăng trƣởng kinh tế. Dựa vào khai thác tài nguyên để tạo động lực phát triển chỉ là
một bƣớc đi ngắn hạn. Để có thể đạt mục tiêu “phát triển bền vững” về dài hạn thì
sự phụ thuộc vào tài nguyên có phải là một lựa chọn? Có những lựa chọn nào cho
phát triển nếu đảm bảo nguyên tắc “bảo vệ tài nguyên” trong hành trình phát triển
bền vững? Hay mục tiêu “phát triển bền vững” là quá xa đối với quốc gia giàu tài
nguyên nhƣng nền kinh tế còn nghèo nàn?
80 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 885 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao việc thu thuế tài nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHƢƠNG MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên của mỗi quốc gia vốn là “của trời cho”. Có những quốc gia may mắn
hơn những quốc gia khác khi đƣợc sinh sống trên những vùng đất giàu có tài
nguyên. Nhƣng không phải quốc gia nào có nhiều tài nguyên cũng trở nên giàu có.
Theo báo cáo của Quỹ quốc tế bảo vệ động vật hoang dã (WWF), con ngƣời đang
sử dụng nguồn Tài nguyên thiên nhiên ở tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với khả
năng sản xuất ra nguồn tài nguyên của hành tinh. Theo báo cáo này, hiện nay con
ngƣời tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của trái
đất. Sự tiêu thụ nhiên liệu nhƣ than, khí và dầu lửa cũng tăng khoảng 700% từ năm
1961-2000. Bên cạnh đó là những hậu quả tiềm tàng của biến đổi khí hậu, cùng với
những mâu thuẫn bắt nguồn từ những nhu cầu đối nghịch của những nhóm lợi ích
xung quanh nguồn Tài nguyên thiên nhiên (các nhóm sử dụng nguồn Tài nguyên
giá trị cao nhƣ khoáng sản, kim loại, đá, các chất có nguồn gốc Hydrocacbon (dầu
mở, khí đốt) và gỗ; các nguồn tại nguyên quý hiếm nhƣ đất đai, rừng và động vật
hoang dã; các nền kinh tế phụ thuộc hàng hoá thô cộng với quản lý ko minh bạch
dẫn đến tham nhũng).
Việt nam là một quốc gia đang phát triển, nguồn lực tri thức còn hạn chế, chƣa
sở hữu những bản quyền công nghệ tiên tiến, nội lực tài chính còn hạn hẹp, tài
nguyên thiên nhiên trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong cuộc đua
tăng trƣởng kinh tế. Dựa vào khai thác tài nguyên để tạo động lực phát triển chỉ là
một bƣớc đi ngắn hạn. Để có thể đạt mục tiêu “phát triển bền vững” về dài hạn thì
sự phụ thuộc vào tài nguyên có phải là một lựa chọn? Có những lựa chọn nào cho
phát triển nếu đảm bảo nguyên tắc “bảo vệ tài nguyên” trong hành trình phát triển
bền vững? Hay mục tiêu “phát triển bền vững” là quá xa đối với quốc gia giàu tài
nguyên nhƣng nền kinh tế còn nghèo nàn?
Đứng trƣớc những thách thức phát triển có liên quan đến việc sử dụng và phân
phối nguồn lực tự nhiên, chính phủ cần nhấn mạnh đến nhu cầu đầu tƣ hiệu quả hơn
vào quản lý nhà nƣớc về tài nguyên thiên nhiên và những nhà hoạch định chính
2
sách cần có những công cụ trong giải quyết mâu thuẫn do tài nguyên thiên nhiên.
Bởi vì, tài nguyên thiên nhiên là dạng hàng hoá đặc biệt do không phải đi qua quá
trình sản xuất. Nếu đƣợc quản lý tốt, tài nguyên sẽ sản sinh lợi tức, đóng góp vào
nguồn tài chính phục vụ phát triển đất nƣớc. Kiểm soát nguồn Tài nguyên thiên
nhiên cũng là nền tảng trong vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia.
2. Mục đích của đề tài
Mục đích đề tài thảo luận vấn đề chính phát sinh trong lĩnh vực Tài nguyên thiên
nhiên. Nội dung tập trung vào “đánh thuế Tài nguyên thiên nhiên” theo tiêu chuẩn
hiệu quả, công bằng, nhằm làm nổi bật tính chất hiệu quả của việc đánh thuế tài
nguyên thiên nhiên và những nguyên nhân công bằng xã hội trong việc đánh thuế
tài nguyên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nhƣ chúng ta đã biết tài nguyên thiên nhiên dần đƣợc sở hữu hoặc kiểm soát bởi
chính phủ, và chịu nhiều loại thuế thông thƣờng; phạm vi của luận văn mở rộng ra
ngoài các hình thức thuế thông thƣờng, bao gồm cả loại tiền khác nhau nhƣ tiền bản
quyền, tiền cho thuê, tiền lợi tức, tiền thƣởng, và các quy định thƣờng đƣợc sử dụng
kết hợp với các loại thuế thông thƣờng. Một số tài nguyên có thể phải nộp thuế cho
những khu vực pháp lý chồng chéo, nhƣ tài nguyên thiên nhiên thƣờng bị đánh thuế
nhiều hơn một chính phủ, hoặc quốc gia khác nhau, kể cả các sản phẩm tài nguyên
thiên nhiên thƣờng đƣợc giao dịch nhƣ hàng hóa. Sau khi liệt kê một phạm vi khá
rộng về các vấn đề thuế và các công cụ, đề tài sẽ hạn chế phân tích chi tiết lý thuyết
và thực nghiệm vào một nguồn tài nguyên cụ thể để đại diện cho các vấn đề
chính. Để phân tích các vấn đề quản lý tối ƣu và đánh thuế tài nguyên tái tạo trong
cạnh tranh sử dụng, nhƣng không phải tài sản chung, đề tài sẽ sử dụng tài nguyên
nƣớc trong nông nghiệp Các vấn đề liên quan đến nguồn tài nguyên chung nhƣ thủy
sản; tài nguyên khai thác (mỏ kim loại) biểu thị một số vấn đề cơ bản trong việc
chọn thời điểm tối ƣu hay việc cân bằng giữa doanh thu có đƣợc và hiệu quả kinh tế
sẽ đƣợc xem xét ở những đề tài tiếp theo. Tại tất cả các phần, đề tài sẽ cố gắng kết
3
hợp phân tích lý thuyết kèm theo kết quả thực nghiệm và tập trung trình bày và định
lƣợng các vấn đề quan trọng nhất trong lĩnh vực thuế tài nguyên.
4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trƣớc tiên và tiếp cận một số khái niệm chung và nguyên nhân, mục đích đánh
thuế tài nguyên. Tiếp đến là những phân tích khái nhiệm tô kinh tế trong sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và trên cơ sở đó phân tích lợi thế của đánh thuế tài nguyên thiên
nhiên để đáp ứng những mục đích nói trên, cũng nhƣ phân tích hoạt động của hệ
thống thuế hiện nay chƣa đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn hợp lý riêng cho các ngành
công nghiệp sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Trên cơ sở đó, nội dung đề tài sẽ khảo sát hệ thống các phƣơng pháp đánh thuế
khác nhau đang sử dụng tại Việt Nam, thế giới và đề xuất những hàm ý cần thiết
nhằm thiết kế và cải thiện hệ thống thuế trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên
nhằm bảo đảm hiệu quả phân bổ tài nguyên thiên nhiên và cải thiện các mục tiêu
công bằng xã hội.
Một ứng dụng nhỏ về đánh thuế tài nguyên tại hệ thống hồ Núi Cốc để minh họa
cho tầm quan trọng của đánh thuế tài nguyên trong quản lý và khai thác Tài nguyên
nƣớc trong nông nghiệp.
4
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN
Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (nhƣ giao dịch, tài sản)
nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. thuế đều c
thuế không đƣợc bóp méo các hoạt động
sản xuất, dẫn tới phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi; việc
thuế và tiến hành trƣng thu thuế phải không
phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có điều kiện nhƣ nhau. Giữa các công
dân có điều kiện khác nhau, thì thuế suất cũng cần khác nhau (vì thông thƣờng
ngƣời có điều kiện tốt hơn có xu hƣớng tiêu dùng hàng hóa công cộng nhiều hơn).
Thuế tài nguyên là một bộ phận của hệ thống thuế toàn cục, là cái tác động đến
thu nhập của các doanh nghiệp. Hệ thống này thông thƣờng bao gồm thuế thu nhập
trực tiếp của một tài nguyên nói chung, các kiểu thuế gián tiếp khác nhau bao gồm
các loại thuế bán hàng và thuế tiêu thụ, cũng nhƣ thuế xuất, nhập khẩu, và các loại
thuế đƣợc thiết kế riêng cho các ngành công nghiệp tài nguyên.
Các chính phủ đánh vô số các loại thuế vào các ngành công nghiệp tài nguyên
của họ. Các loại thuế chung và các loại thuế bán hàng chung, cũng áp dụng cho các
ngành tài nguyên. Tuy nhiên, chúng thƣờng có những điều khoản đặc biệt áp dụng
cho ngành này. Ví dụ, các tỷ suất thuế bán hàng cao hơn có thể đƣợc đánh vào tiêu
dùng các sản phẩm dầu khí.
Đối với trƣờng hợp các
công bằng.
tƣ nhân. Điều này có thể đƣợc nhìn nhận nhƣ một lý luận về công bằng.
Các loại thuế đặc biệt cho các ngành công nghiệp tài nguyên hay đƣợc áp dụng
nhất là một loại thuế sản lƣợng hoặc thuế sản xuất đặc biệt đƣợc đánh vào sản lƣợng
hoặc doanh thu của một ngành tài nguyên. Các loại thuế sản xuất có thể cho phép
5
một số chi phí đƣợc khấu trừ. Trong trƣờng hợp đơn giản nhất, chi phí thƣờng
xuyên và vận hành có thể đƣợc khấu trừ.
Việc xác định giá tính thuế cũng rất phức tạp và chƣa bao quát hết những trƣờng
hợp sẽ xảy ra trong thực tế và còn quá sơ sài. Trƣờng hợp số lƣợng tài nguyên đƣợc
khai thác nhƣng đƣợc sử dụng với nhiều mục đích khác nhau (làm nguyên liệu cho
quá trình sản xuất tiếp; tiêu thụ trên thị trƣờng nội địa, xuất khẩu, nhập kho dự
trữ) hoặc bán ở nhiều địa điểm khác nhau chƣa đƣợc quy định và cũng rất khó có
thể quy định một cách rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, việc quy định giá tính thuế là
“giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên” nhƣ quy định của dự thảo là không rõ ràng,
dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn.
Việc áp dụng cách thu thuế Tài nguyên hiện nay tại Việt Nam đã là biện pháp
hiệu quả? Những cách thức thu thuế tài nguyên có thể đƣợc áp dụng? Đề tài sẽ lần
lƣợt vạch ra những bƣớc đi để tạo điều kiện cho việc quản lý Tài nguyên đƣợc hiệu
quả hơn trong tƣơng lai.
6
CHƢƠNG II: MÔ HÌNH
Kinh tế tài nguyên thiên nhiên xuất phát từ những năm cuối thập niên 70 của thế
kỷ trƣớc, sở dĩ lúc đó tình hình về tài nguyên đã cho thấy không mấy khả quan khi
trữ lƣợng tài nguyên ngày càng cạn kiệt một cách nhanh chóng và sự cạn kiệt là để
phục vụ dòng sản xuất theo thời gian. Điều này cho thấy kinh tế tài nguyên xuất
phát chủ yếu vì nguyên nhân cạn kiệt của tài nguyên.
Các nhà nghiên cứu từ trƣớc đến nay cũng đã có rất nhiều những sự nghiên cứu
về tài nguyên, thành phần của tài nguyên và đặc điểm của nó nhƣ: Tài nguyên thiên
nhiên là các thành phần của tự nhiên mà ở trình độ nhất định của sự phát triển lực
lƣợng sản xuất chúng có thể đƣợc sử dụng làm phƣơng tiện sản xuất và làm đối
tƣợng tiêu dùng. Theo thuộc tính tự nhiên tài nguyên thiên nhiên có thể đƣợc chia ra
là: Tài nguyên đất, nƣớc, khí hậu, sinh vật, khoáng sản. Theo công dụng kinh tế: Tài
nguyên nông nghiệp, công nghiệp, du lịch Theo khả năng có thể bị cạn kiệt trong
quá trình sử dụng của con ngƣời: Tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái tạo, tài nguyên
vô hạn. Các nghiên cứu cũng chỉ ra đƣợc tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên,
đồng thời cũng nhƣ môi trƣờng xung quanh, mối tƣơng quan giữa tài nguyên và
môi trƣờng để nhìn nhận đƣợc cách nhìn tổng quan về tài nguyên và con ngƣời phụ
thuộc, tác động vào nhau nhƣ thế nào.
Một mục tiêu quan trọng nhất của đánh thuế tài nguyên là có
.
2.1.1. Kinh tế tài nguyên cạn kiệt
Môi trƣờng và tài nguyên thiên nhiên thực sự rất quan trọng đối với cuộc sống
của con ngƣời. Trong toàn bộ thời gian qua con ngƣời đã tác động, sử dụng, khai
thác một cách triệt để mà không quan tâm tới tình trạng của nó ra sao. Chính vì vậy,
môi trƣờng sống ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, ô nhiễm, dịch bệnh, tai họa cứ
bùng phát một cách nhanh chóng. Tài nguyên ngày càng cạn kiệt, sử dụng không
hợp lý, con ngƣời đã từng nhầm tƣởng rằng tất cả các loại tài nguyên đều là vô hạn.
7
Thực tế đã cho thấy tài nguyên ngày càng cạn kiệt nhanh chóng bởi sự tiêu thụ
quá mức của con ngƣời. Vì vậy, cả thế giới ngày càng lo lắng cho nguồn tài nguyên
của mình và quan tâm trƣớc tiên, cũng chính là xuất phát chủ yếu của kinh tế tài
nguyên là sự cạn kiệt của tài nguyên cạn kiệt.
Tài nguyên cạn kiệt hay là những loại tài nguyên đƣợc
hình thành bởi các quá trình địa chất trong suốt hàng triệu năm, tồn tại những kho
tài nguyên cố định, nếu đã đƣợc con ngƣời phát hiện và khai thác thì khó có thể tái
tạo hay nói cách khác muốn tái tạo đƣợc lại phải mất bằng đó khoảng thời gian hình
thành khối lƣợng tài nguyên mà con ngƣời đã khai thác hết. Các loại tài nguyên cạn
kiệt điển hình nhƣ dầu mỏ, than, khoáng sản. Có một ƣu điểm đó là các tài nguyên
này về khía cạnh nào đó có chung một vai trò, một công dụng và có thể thay thế cho
nhau trong quá trình sử dụng của con ngƣời nhƣ: Chất đốt có thể dùng khí gas, dùng
dầu, dùng than đá. Một câu hỏi đặt ra là tại sao có thể thay thế cho nhau, cái này hết
có thể dùng đến cái khác để thay thế. Bởi vì, con ngƣời đã không chấp nhận việc sử
dụng một cách lần lƣợt, chờ thời gian để phục hồi loại này thì vẫn có loại khác để
dùng. Con ngƣời chọn cách tiêu thụ hết, theo ý muốn của mình, tiêu dùng một cách
thỏa mãn sự phong phú, đa dạng, không cần quan tâm nó cạn kiệt ra sao, tiết kiệm
ra sao, hậu quả ra sao. Để rồi kho dự trữ tài nguyên cũng đã sắp hết, thậm chí nhiều
nơi đã cạn kiệt hoàn toàn.
Tiêu thụ quá mức tài nguyên cạn kiệt đã gây ra hậu vô cũng nghiêm trọng đến
môi trƣờng sống, đến bầu khí quyển, đến nguồn nƣớc Điển hình là tình hình biến
đổi khí hậu diễn biến nghiêm trọng, mà hậu quả chủ yếu chính là sự phát thải khí
CO2 của con ngƣời ra ngoài môi trƣờng thông qua tiêu thụ tài nguyên.
Với lƣợng tài nguyên còn lại, xã hội phải tính toán làm sao cho khoảng thời gian
là tối ƣu nhất, tìm kiếm các nguồn năng lƣợng thay thế, xử lý, cải thiện những hậu
quả đã gây ra cho môi trƣờng. Kéo dài sự tồn tại của tài nguyên, nghiên cứu ra
những quá trình mà con ngƣời chƣa phát kiến ra đƣợc. Còn với những năng lƣợng
thay thế lại phải tính toán một cách hiệu quả, tối ƣu về chi phí sản xuất và hình thức
quản lý. Với những năng lƣợng sạch sẽ tính toán chi phí tối ƣu, còn với năng lƣợng
8
nhƣ hạt nhân thì lại phải lo quản lý ô nhiễm bên trong nhà máy tránh phát thải, nguy
cơ rủi ro cũng là rất lớn.
Trƣớc tình hình tìm kiếm nguồn năng lƣợng mới luôn gặp phải những khó khăn
về công nghệ, về vốn đầu tƣ, và nguy cơ rủi ro gặp phải. Xã hội vẫn phải tính toán
thời gian tiêu thụ lƣợng tài nguyên còn lại hợp lý. Khoảng thời gian này có thể áp
dụng theo quy tắc Hotelling (Roger Perman, 2003). nhƣ một điều kiện hiệu quả.
Nhƣng quy tắc yêu cầu tỷ lệ tăng trƣởng của giá tài nguyên phải bằng với tỷ lệ chiết
khấu xã hội không tạo ra đƣờng giá duy nhất. Có rất nhiều đƣờng giá thỏa mãn quy
tắc Hotelling, và do vậy chúng đều là những đƣờng hiệu quả. Nhƣng chỉ có một
đƣờng là tối ƣu, nên chỉ sử dụng quy tắc Hotelling nhƣ một điều kiện cần. Quy tắc
Hotelling cho khoan hút tài nguyên không tái tạo thƣờng đƣợc biểu diễn dƣới dạng:
P
P
t
t
.
Lấy tích phân ta đƣợc: ePP
t
t
0
(Pt
Pt
P*t :
PePP
t
t
t 0
*
Quy tắc Hotteling phát biểu giá trị chiết khấu của tài nguyên cần phải nhƣ nhau
tại tất cả các thời điểm. Đây chỉ là một trƣờng hợp đặc biệt. Trong hình 2.1 với 2
đƣờng giá khác nhau, hai giá khởi đầu khác nhau, tăng theo thời gian với cùng một
tỉ lệ chiết khấu. Nếu giả sử bằng 5% mỗi một trong những đƣờng này và có vô số
những đƣờng giá nhƣ vậy đều thỏa mãn quy tắc Hotelling.
Đƣờng giá thỏa mãn quy tắc Hotelling đều là những đƣờng giá thỏa mãn điều
kiện cần. Còn điều kiện đủ là các điều kiện khởi đầu và cuối cùng cho tài nguyên
thiên nhiên cần phải đƣợc thỏa mãn. Sẽ có một kho tài nguyên ở mức khởi đầu nào
đó, theo thời gian sử dụng và nền kinh tế tiếp cận tới cuối kỳ kế hoạch. Nếu giá
khởi đầu là “quá thấp”, thì khối lƣợng sử dụng tài nguyên là “quá nhiều” trong mỗi
giai đoạn, và toàn bộ kho tài nguyên sẽ trở nên cạn kiệt trong khoảng thời gian
9
ngắn, không thể thỏa mãn khoảng thời gian dự định của con ngƣời, để khám phá ra
năng lƣợng thay thế và sử dụng một cách hiệu quả, tối ƣu.
Nguồn (Roger Perman, 2003).
Hình 2.1: Hai đường giá mỗi đường đều thỏa mãn quy tắc Hotelling
Ngƣợc lại, nếu giá khởi đầu là “quá cao”, khối lƣợng sử dụng tài nguyên “quá
nhỏ” trong mỗi giai đoạn, và kho tài nguyên sẽ chƣa bị cạn kiệt, nó sẽ còn rất nhiều,
thời gian rất dài. Điều này cho thấy con ngƣời đang lãng phí tài nguyên mà thiên
nhiên ban tặng, khó có thể phát triển xã hội khi mà con ngƣời không nhận ra đƣợc
điều đó. Vì vậy, nhận thấy rằng sẽ có một mức giá khởi đầu tối ƣu, với một khối
lƣợng khai thác tối ƣu, dẫn tới một đƣờng giá tối ƣu nhất trong tất cả những đƣờng
giá thỏa mãn quy tắc Hotelling. Tóm lại, để có lời giải cho bài toán tối ƣu tạo ra
đƣờng giá tối ƣu là nhiệm vụ của toàn xã hội trong những nghiên cứu về giá khởi
đầu, khối lƣợng khoan hút tối ƣu.
Để làm rõ hơn chúng ta có thể xem xét bài toán điển hình cho tài nguyên cạn
kiệt. Bài toán đƣợc xây dựng lên là bài toán tối ƣu hóa có ràng buộc. Mục tiêu là tối
đa hàm phúc lợi xã hội của nền kinh tế tùy thuộc vào ràng buộc kho – luồng tài
nguyên cạn kiệt hay tài nguyên không tái tạo và đồng nhất thức thu nhập quốc dân.
Viết điều này bằng toán học, do vậy bài toán đƣợc trình bày ra sau đây:
t
Pt
0
P
A
0
P
B
0
ePP
tBB
t
0
ePP
tAA
t
0
10
tC tR ,...,0t
phiếm hàm lợi ích.
: Ut=U(Ct)
:
dteCU
tt
t t
)(0
ràng buộc: RS tt
.
),(),(
.
SRCRKQK tttttt
: St
tK
: t
C tR
.
Lời giải đầy đủ cho bài toán tối ƣu hóa có ràng buộc này sử dụng nguyên tắc cực
đại của bài toán điều khiển tối ƣu. Khi so sánh bài toán này với mô tả của bài toán
tối ƣu cho mô hình đơn giản, một khác biệt đã phát sinh. Phƣơng trình vi phân cho
K
),( RKQ
Q ).
Hamilton giá trị-hi :
),(),(((( )) SRCRKQRPCUH ttttttttC t
4 phƣơng trình
sau:
11
)4(
)2(
)1(
.
.
)3(
Q
PP
Q
U
K
S
P
RR
C
)/( KQQK RQ )/( RQ
.
.
Pt t
. C t t=0,1,,∞
.
. Do đó, p
:
RtRtt QP (Giá ròng = Giá thô – Chi phí cận biên)
Rt
n thiên nhiên ( RRQ
P .
12
-lợi
R (2).
, nhƣng b
:
SPP
.
SPP
.
, ta đƣợc:
PP
P S
.
,
PS / ).
:
sPP
.
13
P
, P
P
S
.
R
ác động kho lên chi phí.
) sẽ lớn hơn.
Nhƣ vậy, c
14
. Xử lý
thuế đối với các hoạt động thăm dò sẽ
, vì chúng
tạo ra các chi phí khác nhau để nền kinh tế có đƣợc tài nguyên. Một đặc tính có liên
quan của các tài nguyên không hồi sinh là chún
nguyên. Điều này cũng có các hàm ý thuế.
Theo thời gian nhìn thấy những nguy cơ của tài nguyên cạn kiệt, tài nguyên tái
tạo cũng có nguy cơ cạn kiệt. Sau đó, cuối thế kỷ 20 thì kinh tế tài nguyên thiên
nhiên đƣợc mở rộng nghiên cứu cho các tài nguyên tái tạo. Do sự bùng nổ dân số và
tăng trƣởng kinh tế là nhân tố chính góp phần gia tăng cạn kiệt của tài nguyên.
Tài nguyên tái tạo là tài nguyên có khả năng tái sản xuất và tăng trƣởng bởi các quá
trình vật lý, hóa học và sinh học. Các tài nguyên tái tạo rất phong phú. Nó có thể
bao gồm: Sự tăng trƣởng của đàn cá hay nói chung là tài nguyên thủy sản, khu rừng
có khả năng tăng trƣởng tự nhiên, các hệ thống nƣớc và bầu khí quyển, những hệ
thống đƣợc tái sản xuất bởi các quá trình vật lý, hóa học. Và cũng có thể là độ phì
nhiêu có thể tái tạo một cách tự nhiên
Có một sự tƣơng tự giữa tài nguyên tái tạo và tài nguyên cạn kiệt là cả hai đều
có khả năng bị cạn kiệt hoàn toàn nếu khối lƣợng khai thác quá nhiều vƣợt quá mức
và kéo dài. Đối với tài nguyên cạn kiệt khả năng cạn kiệt là hậu quả của tính hữu
hạn của kho. Còn tài nguyên tái tạo, tuy kho của nó có thể tăng trƣởng, tái sản xuất,
nó vẫn có thể tiến dần tới giá trị cuối cùng là bằng không. Lý do, là bởi vì với các
điều kiện hiện hoành dân số ngày càng gia tăng, bùng nổ một cách chóng mặt, cùng
với sự tăng trƣởng của nền kinh tế đòi hỏi khối lƣợng tài nguyên khổng lồ, tất cả
đều ảnh hƣởng tới năng lực tái sản xuất của tài nguyên tái tạo, tỷ lệ khai thác tiếp
tục vƣợt quá tăng trƣởng tự nhiên ròng.
Không chỉ có sử dụng tài nguyên cạn kiệt là gây ra ô nhiễm, mà việc sử dụng tài
nguyên tái tạo ngày nay cũng gây ra ô nhiễm rất nghiêm trọng. Trong nông nghiệp,
15
nhu cầu xã hội ngày càng phát triển cao đòi hỏi con ngƣời ngày càng phải sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau để tăng năng suất sản lƣợng sản phẩm. Những hoạt động
nhằm mục đích kinh tế của con ngƣời là nguyên nhân cơ bản làm ô nhiễm môi
trƣờng. Việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp nhiều và không hợp lý đã làm cho
môi trƣờng đất ngày càng xấu đi. Sự tích tụ cao các chất độc hại, các kim loại nặng
trong đất sẽ làm tăng khả năng hấp thụ các nguyên tố có hại cho cây trồng, vật nuôi
và gián tiếp gây ảnh hƣởng xấu tới sức khỏe con ngƣời. Trong sản xuất, sử dụng tài
nguyên nếu con ngƣời có tinh thần trách nhiệm, không vì lợi ích trƣớc mắt mà
không làm cho thiên nhiên nghèo đi, môi trƣờng sống của cả cộng đồng đã không bị
ô nhiễm.
Trong tài nguyên cạn kiệt đƣờng giá thỏa mãn quy tắc Hotelling, đƣờng giá tối
ƣu đƣợc quan tâm nhiều. Còn với tài nguyên tái tạo sẽ chú ý, dành quan tâm nhiều
đến thu hoạch trạng thái ổn định. Trạng thái ổn định là một trạng thái lý tƣởng,
trong một giai đoạn khối lƣợng kho tài nguyên đƣợc thu hoạch bằng với khối lƣợng
tăng trƣởng tự nhiên ròng của tài nguyên. Lý tƣởng khi mà trạng t