Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Như chúng ta biết, vốn là một yếu tố đầu vào cơ bản trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, chúng ta không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước cũng như mục tiêu của các doanh nghiệp nếu không có vốn. Đối với NHTM, với tư cách là một doanh nghiệp, một định chế tài chính trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến các hoạt động chủ yếu của ngân hàng, quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn trong hoạt động của mỗi ngân hàng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn của ngân hàng bao gồm nhiều loại nhưng vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất. Huy động vốn là điều kiện đầu tiên và là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các nước trên thế giới, nhưng quá trình này thường kèm theo sự bất ổn định và nó được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực ngân hàng, một khu vực nhạy cảm với các yếu tố tác động bên ngoài. Muốn tồn tại và phát triển bền vững, mỗi ngân hàng cần phải lựa chọn cho mình một con đường đi phù hợp nhất và nâng cao được uy tín của mình, uy tín đó được thể hiện trước hết thông qua khả năng tài chính. NHNo&PTNT Hà nội luôn giữ vai trò chủ lực thúc đầy nền kinh tế đất nước phát triển. Ngân hàng đã và đang khẳng định vị thế hàng đầu này trong công tác huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Đứng trước xu thế hội nhập và sự cạnh tranh của các ngân hàng khác, NHNo&PTNT Hà nội đang cố gắng tìm mọi biện pháp nhằm khai thác tối đa nguồn vốn còn tiềm tàng trong các tổ chức kinh tế và dân cư để có một nguồn vốn phong phú với cơ cấu tối ưu. Do nguồn vốn có vị trí quan trọng như vậy đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngân hàng nói riêng, nên vấn đề huy động vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao đang rất được quan tâm hiện nay. Bởi vậy em chọn đề tài là “Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội” làm đề tài nghiên cứu. Kết cấu bài viết của em bao gồm những nội dung sau: Chương 1: Các lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của NHTM Chương 2: Thực trạng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội Chương 3: Giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội.

doc95 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2424 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta biết, vốn là một yếu tố đầu vào cơ bản trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, chúng ta không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước cũng như mục tiêu của các doanh nghiệp nếu không có vốn. Đối với NHTM, với tư cách là một doanh nghiệp, một định chế tài chính trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì vốn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến các hoạt động chủ yếu của ngân hàng, quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn trong hoạt động của mỗi ngân hàng. NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn của ngân hàng bao gồm nhiều loại nhưng vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất. Huy động vốn là điều kiện đầu tiên và là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các nước trên thế giới, nhưng quá trình này thường kèm theo sự bất ổn định và nó được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực ngân hàng, một khu vực nhạy cảm với các yếu tố tác động bên ngoài. Muốn tồn tại và phát triển bền vững, mỗi ngân hàng cần phải lựa chọn cho mình một con đường đi phù hợp nhất và nâng cao được uy tín của mình, uy tín đó được thể hiện trước hết thông qua khả năng tài chính. NHNo&PTNT Hà nội luôn giữ vai trò chủ lực thúc đầy nền kinh tế đất nước phát triển. Ngân hàng đã và đang khẳng định vị thế hàng đầu này trong công tác huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Đứng trước xu thế hội nhập và sự cạnh tranh của các ngân hàng khác, NHNo&PTNT Hà nội đang cố gắng tìm mọi biện pháp nhằm khai thác tối đa nguồn vốn còn tiềm tàng trong các tổ chức kinh tế và dân cư để có một nguồn vốn phong phú với cơ cấu tối ưu. Do nguồn vốn có vị trí quan trọng như vậy đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngân hàng nói riêng, nên vấn đề huy động vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao đang rất được quan tâm hiện nay. Bởi vậy em chọn đề tài là “Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội” làm đề tài nghiên cứu. Kết cấu bài viết của em bao gồm những nội dung sau: Chương 1: Các lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của NHTM Chương 2: Thực trạng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội Chương 3: Giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội. CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM NHTM trong nền kinh tế thị trường Khái niệm NHTM Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường là cơ hội tốt để các trung gian tài chính đặc biệt là các NHTM thể hiện được vị trí quan trọng của mình. Hiện nay đang tồn tại rất nhiều các khái niệm khác nhau về NHTM, sau đây em xin trình bày một số khái niệm: - Ở Mỹ người ta định nghĩa NHTM là: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính. - Ở Ấn Độ định nghĩa là: NHTM là cở sở nhận các khoản ký thác để cho vay hoặc tài trợ hay đầu tư. - Theo luật Ngân hàng Việt Nam đã định nghĩa NHTM như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. (trang 164, chương 6, tiền tệ và ngân hàng) Định nghĩa trên đã khẳng định về bản chất NHTM là một doanh nghiệp tài chính hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, và nó phải thực hiện hai nghiệp vụ cơ bản sau: - Nhận ký thác của doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan Nhà nước - Sử dụng khoản ký thác đó để cho vay hoặc chiết khấu Các nghiệp vụ trên của ngân hàng được thực hiện một cách đầy đủ và thường xuyên. Trong quá trình hoạt động ngân hàng phải chịu trách nhiệm về các nghiệp vụ độc lập của mình. Ngoài ra pháp lệnh còn quy định thêm ngân hàng phải có trách nhiệm “hoàn trả” và “làm phương tiện thanh toán” Chức năng của NHTM Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM rất phong phú và đa dạng, gần đây đã có sự đổi mới nhiều trong các nghiệp vụ ngân hàng bao gồm: việc đưa vào sử dụng thẻ tín dụng, dịch vụ kiểm toán đối với các doanh nghiệp, máy trả tiền tự động, môi giới chiết khấu, cho thuê két sắt...nhằm giúp ngân hàng thích ứng được với các các điều kiện kinh tế năng động và sự điều chỉnh của pháp luật. Chính vì vậy NHTM ngày càng khẳng định được vị thế của mình trước sự phát triển lớn mạnh của đất nước và điều này được thể hiện rất rõ qua các chức năng cơ bản sau của NHTM: NHTM là trung gian tài chính Như chúng ta đã biết, trước khi hệ thống NHTM xuất hiện thì quan hệ tín dụng giữa chủ thể có tiền mà chưa sử dụng với chủ thể có nhu cầu vay vốn gặp rất nhiều hạn chế, vì người có nhu cầu khó có thể tìm gặp được người có khả năng cung cấp. Hoạt động của NHTM đã khắc phục được hạn chế đó, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Trong nền kinh tế thị trường, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phần lớn các quan hệ tín dụng được tập trung qua Ngân hàng. Còn các doanh nghiệp thì nguồn tín dụng do các ngân hàng cung cấp đã trở lên phổ biến và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong kết cấu tài sản nợ của doanh nghiệp. NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền và kiềm chế lạm phát. NHTM thu hút vốn nhãn rỗi trong xã hội nhằm tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế. Chức năng trung gian thanh toán. Ta có thể thấy rằng, nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí để thực hiện các chi trả đó là rất lớn, bao gồm: những chi phí cho lưu thông tiền mặt của ngân hàng như in, đúc tiền, bảo quản, vận chuyển. Với sự ra đời và phát triển của NHTM, đại bộ phận các khoản chi trả của cá nhân được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, tiết kiệm chi phí lưu thông đồng thời tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng đã có rất nhiều các hình thức thanh toán như: thanh toán nhờ các loại thẻ, thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi...để có thể tiết kiệm tối đa thời gian và chi phí của khách hàng. cơ chế thanh toán là một trong những chức năng quan trọng do các Ngân hàng thương mại thực hiện và nó càng trở lên quan trọng khi được sự tín nhiệm trong việc sử dụng séc và thẻ tín dụng. Khác với nền kinh doanh tiền tệ dưới hình thức ban đầu giản đơn và thuần tuý của nó, nghĩa là tách khỏi chế độ tín dụng trong ngân hàng, thì chức năng trung gian thanh toán gắn bó một cách chặt chẽ và hữu cơ với chức năng trung gian tài chính. "Ngân hàng dùng số tiền của nhà tư bản này cho các nhà tư bản khác vay" (Kmark, tư bản, quyển III tập I trang 462). Khi NHTM là trung tâm tín dụng thì NHTM sẽ huy động vốn từ dân cư qua nhiều hình thức khác nhau như: kỳ phiếu, trái phiếu....Qua đó ngân hàng sẽ tập trung được một lượng vốn lớn từ các thành phần kinh tế. Ngân hàng sẽ sử dụng số tiền đó để cho vay. Khi các bên có nhu cầu chi trả, thanh toán Ngân hàng sẽ đứng ra làm trung gian thanh toán. Với khoa học công nghệ ngày càng phát triển, công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ ngày càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không những giữa các ngân hàng cùng quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Qua việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán, ngân hàng đã trở thành "người thủ quỹ" của các nhà doanh nghiệp. Mọi việc thanh toán trao đổi đều được thực hiện thông qua ngân hàng. Chức năng tạo phương tiện thanh toán. Sự ra đời của các Ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển rất lớn trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Trong quá trình đó, các chủ ngân hàng đã phát hành giấy chứng nhận được khách hàng sử dụng chi trả các khoản nợ vì thế tiền giấy được chuyển đổi ra vàng được các ngân hàng đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng thay thế cho tiền vàng hoặc bạc. Sáng kiến này được xã hội chấp nhận và đây chính là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử hoạt động của tiền tệ. Các ngân hàng hoạt động cùng trong một hệ thống nên các NHTM đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ đã thay thế tiền mặt là một sáng kiến quan trọng thứ hai của lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức tạo tiền này, mà ngân hàng trở thành trung tâm của đời sống kinh tế hiện đại. Một trong những chức năng chủ yếu của các Ngân hàng thương mại là khả năng tạo và huỷ tiền. Quá trình tạo tiền của các NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và tổ chức thanh toán trong ngân hàng. Theo quan niệm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận như: Tiền giấy trong lưu thông, số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch, tiền gửi có kỳ hạn...Như vậy các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán khi các ngân hàng cho vay (hay tạo tín dụng). Các ngân hàng đã làm cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, và họ có thể dùng để chi trả khi đi mua hàng hoặc các dịch vụ khác. Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của các Ngân hàng thương mại. Điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế bền vững đó là hệ thống tín dụng phải năng động. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp, sản xuất không thực hiện được và nguồn tích luỹ từ lợi nhuận và các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn thế nữa, các đơn vị sản xuất có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển không được sử dụng trong quá trình sản xuất. Như thế không mang lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng thương mại. Nền kinh tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép vượt quá số lượng cần thiết. Nếu tiền cung ứng tăng quá mạnh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả xấu là nền kinh tế sẽ phải chịu đựng. sVì vậy các NHTM có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục đích của chính sách tiền tệ, đó là đưa ra một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định giá cả, sự tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo được nhiều việc làm. Vai trò của NHTM NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, sinh hoạt, tiêu dùng nói riêng. Xét từ góc độ nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh NHTM có các vai trò sau: - Vai trò trung gian: NHTM đảm nhiệm việc chuyển các khoản tiền nhàn rỗi, chủ yếu từ hộ gia đình thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh. - Vai trò thanh toán: ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ - Vai trò là người bảo lãnh: Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ cho khách hàng khi khách hàng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (như phát hành thư tín dụng). - Vai trò là đại lý: Ngân hàng thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán. - Vai trò thực hiện các chính sách: Thực hiện các chính sách của chính phủ, góp phần điều tiết sự phát triển kinh tế. Vốn và nguồn vốn của NHTM Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM Như ta đã biết, ngân hàng chính là một doanh nghiệp tín dụng mà bản chất của nó là kinh doanh tiền tệ. Một ngân hàng muốn đi vào hoạt động kinh doanh thì phải đảm bảo được số vốn ban đầu theo quy định của chính phủ, đó là vốn pháp định. Từ cơ sở số vốn ban đầu ngân hàng sẽ phát triển và gia tăng nguồn vốn của mình bằng các hình thức khác nhau. Việc tăng trưởng nguồn vốn là vấn đề mà ngân hàng nào cũng không thể không quan tâm. Quy mô của vốn cũng chính là quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có số vốn càng lớn thì hoạt động càng đảm bảo mang lại hiệu quả cao, tạo được lòng tin cho khách hàng và sẽ ngày càng thu được lợi nhuận cao hơn. Ngược lại nếu như một ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì dần dần sẽ mất khách hàng và làm giảm lợi nhuận. Yếu tố quyết định để một NHTM có đủ khả năng thanh toán hay không, có đảm bảo được uy tín của ngân hàng đối với khách hàng hay không, đó chính là vốn. Ngân hàng cần phải có nguồn tài chính vững mạnh để có thể khẳng định được mình trên thị trường, đảm bảo cho người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu của họ bất cứ lúc nào ngay cả khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Quy mô của vốn cũng chính là quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có số vốn càng lớn thì hoạt động càng đảm bảo mang lại hiệu quả cao, tạo được lòng tin cho khách hàng và sẽ ngày càng thu được lợi nhuận cao hơn. Ngược lại nếu như một ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì dần dần sẽ mất khách hàng và làm giảm lợi nhuận. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng nào cũng luôn có xu hướng mở rộng quy mô để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường khả năng phục vụ khách hàng về cả chất lượng và số lượng. Ngân hàng nào có được nguồn vốn càng lớn thì càng có được nhiều thuận lợi để mở rộng các hình thức kinh doanh và như vậy thì sẽ đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho ngân hàng. Vốn còn được xem là một yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng nào cũng luôn có xu hướng mở rộng quy mô để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường khả năng phục vụ khách hàng về cả chất lượng và số lượng. Ngân hàng nào có được nguồn vốn càng lớn thì càng có được nhiều thuận lợi để mở rộng các hình thức kinh doanh. Nguồn vốn của NHTM. Như chúng ta đã biết, NHTM là một doanh nghiệp tài chính đặc biệt mà bản chất của nó là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. NHTM là một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng của bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và một số vốn khác. Vốn chủ sở hữu. Cũng như bất cứ một tổ chức kinh doanh nào, muốn đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh phải có vốn riêng thuộc sở hữu của mình. Đây là yếu tố bắt buộc đối với tất cả các tổ chức kinh tế thực hiện kinh doanh. Vốn chủ sở hữu của NHTM là số vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, đó là nguồn tiền được đóng góp chủ yếu bởi những chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau và được phân thành vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó: Vốn cấp 1 là vốn cơ bản được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng Vốn cấp 2 là vốn bổ sung được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1. Theo văn bản hiện hành của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vốn của NHTM được xác định cụ thể như sau: * Vốn cấp 1 Vốn cấp 1 của NHTM bao gồm: Thứ nhất là: vốn điều lệ Đó là số vốn được quy định trong điều lệ hoạt động của NHTM, đó là điều kiện bắt buộc một ngân hàng phải đáp ứng trước khi có quyết định thành lập và hoạt động. Tuỳ theo mỗi hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình thành từ các nguồn khác nhau như: Đối với các NHTM nhà nước thì nơi cung cấp vốn điều lệ chính là ngân sách nhà nước, ngân sách sẽ cung cấp vốn khi các ngân hàng này được thành lập và được bổ sung trong quá trình hoạt động; Các NHTM cổ phần thì số vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp; Vốn điều lệ của các ngân hàng liên doanh do các bên tham gia liên doanh góp; Đối với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, vốn điều lệ do ngân hàng mẹ ở nước ngoài cấp… Vốn điều lệ ngoài là căn cứ để xác định điều kiện một ngân hàng có được phép thành lập và đi vào hoạt động kinh doanh hay không, nó còn là chỉ tiêu phản ánh quy mô, năng lực hoạt động của một ngân hàng. Nhưng vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và ý đồ thành lập ngân hàng với quy mô hoạt động khác nhau.Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng luôn phải lớn hơn hoặc tối thiểu cũng phải bằng vốn pháp định, đó là số vốn do Chính phủ quy định trong từng thời kỳ cho từng loại hình ngân hàng. Các ngân hàng luôn có thể mở rộng quy mô của mình trong quá trình hoạt động, và như vậy vốn điều lệ cũng phải tăng thêm. Các ngân hàng tăng vốn điều lệ nhưng phải có sự đồng ý của Ngân hàng Trung ương và phải công khai vốn điều lệ mới. Thứ hai là: các quỹ dự trữ Các ngân hàng có rất nhiều quỹ dự trữ, các quỹ này được hình thành trong quá trình hoạt động và được tích luỹ theo thời gian để sử dụng cho các mục đích cụ thể của ngân hàng. Các quỹ dự trữ bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ …. Việc trích lập và sử dụng các quý dự trữ của ngân hàng được thực hiện theo quy định của pháp luật trong từng thời kỳ. Thứ ba là: lợi nhuận không chia Đó là phần thu nhập của ngân hàng được giữ lại trong quá trình kinh doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông. Như vậy, vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua cổ phiếu, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng. * Vốn cấp 2 Vốn cấp 2 của NHTM gồm: Thứ nhất là: Giá trị tăng thêm của tài sản cố định và giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật. Do giá trị thị trường của tài sản có thể thay đổi theo thời gian, nên vốn do đánh giá lại tài sản thường không ổn định, vì vậy các ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 một phần giá trị tăng thêm của tài sản. Theo quy định hiện hành thì vốn cấp 2 gồm: 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định và 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật. Thứ hai là: Dự phòng chung. Đây là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân nợ và trích lập dự phòng cụ thể trong các trường hợp khó khăn về tài chính của ngân hàng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Việc trích lập và sử dụng dự phòng chung được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành thì mức dự phòng chung được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng tài sản Có rủi ro. Thứ ba là: Các trái phiếu chuyển đổi và một số công cụ nợ khác thoả mãn điều kiện do ngân hàng nhà nước quy định. Đây là khoản nợ vốn dài hạn do các nhà đầu tư bên ngoài đóng góp. Vì vậy các nhà quản lý ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 khi các công cụ này thoả mãn các điều kiện do NHTƯ quy định về thời hạn, về đảm bảo của ngân hàng khi phát hành, về điều chỉnh tăng lãi xuất, về thanh toán nợ gốc và lãi... Như vậy ta thấy, ngân hàng là một doanh nghiệp tài chính có tính chất đặc thù trong kinh doanh, nên vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM. Nhưng vốn chủ sở hữu của ngân hàng lại đóng vai trò quan trọng và thực hiện một số chức năng không thể thay thế được như: cung cấp nguồn lực ban đầu để giúp các ngân hàng mới thành lập có thể đi vào hoạt động, cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng quy mô hoạt động, giúp ngân hàng chống lại rủi ro.... Vốn huy động. Đây là nguồn vốn chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của một NHTM thường chiếm từ 70% đến 80%. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn không thuộc sở hữu của ngân hàng, nhưng ngân hàng có quyền sử dụng tạm thời khoản vốn này và cho vay đối với khách hàng để hưởng lãi. Để được quyền sử dụng khoản vốn này ngân hàng phải trả cho người gửi tiền tiết kiệm, những người mua trái phiếu một khoản tiền bằng lãi suất huy động tính trên số tiền huy động. Ngoài ra ngân hàng còn phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn các khoản vốn này theo thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng. Vì ngân hàng là một tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế nên việc tạo lập vốn cho ngân hàng là vấn đề quan trọng hàng đầu. Trong ng
Luận văn liên quan