Kinh tế quốc tế là môn khoa học kinh tế nghiên cứu tính quy luật của sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia, nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ, sự vận động của các yếu tố sản xuất, sự chuyển đổi tiền tệ và cán cân thanh toán giữa các quốc gia, nghiên cứu các chính sách điều chỉnh quá trình vận động và trao đổi.
Sự hình thành và phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan. Ban đầu đó là sự trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, khí hậu, Tiếp theo, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, giữa các nước còn nảy sinh sự khác biệt về trình độ kỹ thuật, bí quyết công nghệ, nguồn vốn tích lũy, nguồn lao động, trình độ quản lý Điều đó dẫn tới sự trao đổi các yếu tố của quá trình tái sản xuất, tức là làm cho trao đổi quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cơ sở của việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế con do lợi ích trong chuyên môn hóa, trong việc đạt tới quy mô tối ưu của từng ngành sản xuất, trong việc đa dạng hóa nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sự khác biệt trong nhu cầu và khả năng thanh toán của họ
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để tới vị trí thuận lợi trong nền kinh tế thế giới. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phát triển mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và di chuyển quốc tế về lao động, hợp tác về kinh tế và khoa học – công nghệ, các dịch vụ thu ngoại tệ ( giao thong vận tải quốc tế, du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế ). Trên ý nghĩa đó việc nghiên cứu môn học kinh tế quốc tế là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và phương pháp luận, tạo điều kiện cho việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia đạt hiệu quả cao.
13 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khai thác các khu công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Đưa ra ý kiến bình luận về nhận định sau:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm hỗ trợ cho việc triển khai thành công các khu công nghiệp tại Việt Nam.
Bài làm:
Nhận xét về giáo viên và mức độ cần thiết của môn học với công việc:
Nhận xét về giáo viên:
Mức độ cần thiết của môn học với công việc:
Kinh tế quốc tế là môn khoa học kinh tế nghiên cứu tính quy luật của sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia, nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ, sự vận động của các yếu tố sản xuất, sự chuyển đổi tiền tệ và cán cân thanh toán giữa các quốc gia, nghiên cứu các chính sách điều chỉnh quá trình vận động và trao đổi.
Sự hình thành và phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan. Ban đầu đó là sự trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, khí hậu,… Tiếp theo, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, giữa các nước còn nảy sinh sự khác biệt về trình độ kỹ thuật, bí quyết công nghệ, nguồn vốn tích lũy, nguồn lao động, trình độ quản lý… Điều đó dẫn tới sự trao đổi các yếu tố của quá trình tái sản xuất, tức là làm cho trao đổi quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cơ sở của việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế con do lợi ích trong chuyên môn hóa, trong việc đạt tới quy mô tối ưu của từng ngành sản xuất, trong việc đa dạng hóa nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sự khác biệt trong nhu cầu và khả năng thanh toán của họ…
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để tới vị trí thuận lợi trong nền kinh tế thế giới. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phát triển mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và di chuyển quốc tế về lao động, hợp tác về kinh tế và khoa học – công nghệ, các dịch vụ thu ngoại tệ ( giao thong vận tải quốc tế, du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế… ). Trên ý nghĩa đó việc nghiên cứu môn học kinh tế quốc tế là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và phương pháp luận, tạo điều kiện cho việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia đạt hiệu quả cao.
Nội dung chính:
1. Lý do chọn đề tài:
Một nền kinh tế muốn phát triển cần có các nguồn lực: vốn, khoa học – công nghệ, tài nguyên và nguồn nhân lực; muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào yếu tố con người. Nếu so sánh các nguồn lực với nhau thì nguồn nhân lực có ưu thế hơn cả. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn nhân lực luôn chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội trong tình hình mới, cần triển khai có hiệu quả các khu công nghiệp trong toàn quốc, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những yêu cầu cơ bản trước mắt và lâu dài trong việc sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả nhất, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy những yếu tố tinh thần gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng với việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nguồn nhân lực; coi chất lượng nguồn nhân lực là một tiền đề cơ bản để triển khai thành công các khu công nghiệp tại Việt Nam.
Các Nghị quyết của Đảng và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước đã đặt con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người và nguồn nhân lực là những nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Con người Việt Nam có trình độ công nghệ tiên tiến hướng tới nền kinh tế tri thức với hàm lượng chất xám (trí lực) cao và hiệu quả là tiền đề quan trọng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
2. Mục đích chọn chủ đề:
- Thứ nhất, góp phần phân tích đánh giá tính khách quan, những khó khăn, thuận lợi và vai trò của nguồn nhân lực đối với sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp.
- Thứ hai, phân tích những bài học kinh nghiệm trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp.
- Thứ ba, trên cơ sở đó, tìm hiểu thực trạng, đề xuất một số chính sách thu hút và đào tạo nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi:
Phạm vi của chủ đề giới hạn ở các khu công nghiệp của Việt Nam. Phương châm chủ đạo trong việc nghiên cứu, phân tích đề tài là tôn trọng hiện thực khách quan. Trên cơ sở thực tiễn về nguồn nhân lực đang diễn ra tại Việt Nam để tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp, tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nội dung:
Việt Nam là một quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời, vốn là một đất nước thuần nông, lao động chủ yếu là thủ công, kỹ thuật còn thô sơ lạc hậu nên trong một thời gian dài nền kinh tế còn phát triển chậm không theo kịp với sự đi lên nhanh chóng của các nước trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, muốn phát triển kinh tế nhanh thì trước hết phải xây dựng một nền tảng khoa học kỹ thuật vững chắc. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong 10 năm tới là đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản là một đất nước công nghiệp. Nước công nghiệp ở đây được hiểu là một đất nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Để thực hiện muc tiêu tổng quát trên một cách thành công đòi hỏi phải có các tiền đề cần thiết, xây dựng các khu công nghiệp mới trên toàn quốc trên cơ sở phát huy được nội lực vốn có như tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật; huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại để tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, để học tập khoa học kỹ thuật của họ …, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước và đặc biệt không thể thiếu là việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
Phát triển khu công nghiệp gắn liền với hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, trung tâm đô thị lớn rất cần một lực lượng đông đảo lao động có chất lượng cao. Nhìn lại gần 20 năm phát triển các khu công nghiệp, có thể đánh giá được những điểm sau:
Thứ nhất, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng cần đến lượng lớn lao động. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cần khoảng hơn 100 nghìn lao động trực tiếp. Nếu tính độ lan tỏa của nó (hiệu ứng tràn) thì khả năng cần lao động còn lớn hơn nhiều.
Thứ hai, khu công nghiệp là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do đó, đóng góp rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. Trong số lao động được tuyển vào doanh nghiệp thì lao động phổ thông về cơ bản được đào tạo kèm cặp tại doanh nghiệp theo yêu cầu của công nghệ và dây chuyền sản xuất để vào làm việc (mặc dù không được cấp chứng chỉ). Số còn lại trên 45% được đào tạo bổ sung kỹ năng mới cho phù hợp với công nghệ áp dụng trong sản xuất. Đến nay, nhiều khu công nghiệp đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trường nghề khu công nghiệp Dung Quất, Trung tâm dạy nghề Việt Nam – Singapore, Trường nghề Nghi Sơn, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên – Huế…). Đặc biệt đã hình thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các khu công nghiệp và nhà trường (Đồng Nai)… Khu công nghiệp là nơi cần hỗ trợ quan trọng lao động kỹ thuật hiện nay.
Thứ ba, phát triển khu công nghiệp đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường sức lao động, nhất là lao động có trình độ cao ở nước ta. Hiện nay, lao động làm công ăn lương có khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao động) thì 80% tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung. Về cơ bản, khu công nghiệp sản xuất sảnphẩm dùng cho xuấtkhẩu. ở đó, doanh nghiệp được thử thách trong môi trường cạnh tranh sôi động không chỉ trong nước, mà còn trong môi trường cạnh tranh quốc tế rất gay gắt tạo tiền đề để không ngừng phấn đấu, nâng cao tay nghề lao động.
Thứ tư, quan hệ lao động trong các khu công nghiệp bước đầu được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận và tự định đoạt của các bên theo nguyên tắc của thị trường và của pháp luật. Khu công nghiệp có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng, rất tiên tiến, đạt trình độ quốc tế và đa dạng, phụ thuộc vào nguồn xuất xứ của FDI (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Công, Đài Loan, Xin-ga-po, EU, Mỹ…). Đây là môi trường tốt thúc đẩy việc đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của Việt Nam có thể thay thế dần lao động quản lý người nước ngoài.
Yêu cầu cấp thiết là tiếp tục phát triển thị trường lao động trình độ cao ở các khu công nghiệp. Đây là thị trường có khả năng cạnh tranh không chỉ trong nước, mà còn tham gia vào thị trường quốc tế. Như vậy, một trong những yếu tố quyết định chất lượng, sự thành công của các khu công nghiệp, đặc biệt là những khu công nhiệp đang trong quá trình hình thành như ở Việt Nam, là nguồn nhân lực!
Chúng ta cùng xem xét cơ sở khoa học cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
- Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức. Triển khai các khu công nghiệp tại Việt Nam là từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được Đảng ta khẳng định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội. Tại Đại hội X, “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” trở thành một nội dung lớn về chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong những thập niên tới. Đại hội chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá tŕnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xă hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hoá”. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức là có căn cứ khoa học và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Như vậy trong kinh tế tri thức, việc đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với coi trọng phát triển khoa học công nghệ cao trở thành động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế.
- Thứ hai, xuất phát từ thực trạng của nguồn nhân lực nước ta.
Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85 triệu dân, đứng thứ 2 trong khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng (trên 50% số dân trong độ tuổi từ 15 - 60 (độ tuổi lao động) và 45% trong tổng số lao động có độ tuổi dưới 54). Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Về chất lượng, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn 20 năm đổi mới, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên gần 30% (năm 2007). So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như: thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao động quốc tế.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế. Về trình độ khoa học và công nghệ của một số nước so với Việt Nam: Hiện nay, tỷ lệ sử dụng công nghệ cao trong công nghiệp ở Philippine chiếm 29%; Thái Lan là 30,8%; Malaysia là 51,1%; Singgapore là 73% và Việt Nam là 20%. Chất lượng của nguồn nhân lực thấp là những cản trở rất lớn cho quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam. Vì vậy, cần phải tập trung mũi nhọn vào việc tăng trưởng chất lượng của nguồn nhân lực (bao gồm cả thể lực và trí lực), mà trực tiếp nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nước ta đang đứng trước thách thức rất lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng thể nguồn nhân lực. Hiện nay cả nước có khoảng 1,5 triệu người có tŕnh độ cao đẳng, đại học trở lên; riêng phó giáo sư và giáo sư là 5.784 người (tính đến tháng 12/2005). Trong số cán bộ có tŕnh độ trên đại học, phần lớn tập trung làm việc tại các trường đại học, các cơ quan Trung ương và tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2005, lao động qua đào tạo mới đạt trên 25%, trong đó, lao động qua đào tạo nghề còn rất thấp, khoảng trên 13%. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp, tŕnh độ chuyên môn, tay nghề của công nhân trong các loại hình doanh nghiệp năm 2005 như sau:
- Lao động có tŕnh độ từ cao đẳng trở lên chiếm 16,1%.
- Lao động được đào tạo trình độ trung cấp chiếm 14,6%.
- Lao động là công nhân kỹ thuật chiếm 28,1%.
- Không được đào tạo chiếm 41,2%.
Hiện nay, ở các khu công nghiệp, khu chế xuất đang thiếu nghiêm trọng lực lượng công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân đang làm những công việc phù hợp với ngành nghề được đào tạo. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng sản phẩm và gây lăng phí lớn trong đào tạo.
Hơn nữa, hiện tượng “thất thoát chất xám” ra nước ngoài và tại chỗ có xu hướng trẻ hóa và ngày càng gia tăng. Hiện nay, một số lượng không ít học sinh, sinh viên bằng nhiều con đường khác nhau đang được học tập, đào tạo ở nhiều nước. Đó là một trong những cách thức và cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta theo kịp trình độ thế giới; song đó cũng là nguy cơ lớn dẫn đến chảy “chất xám” ra bên ngoài do tình trạng không ít học sinh, sinh viên sau khi được đào tạo đã không trở về phục vụ đất nước. Mặt khác, hiện nay, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không được sử dụng đúng ngành nghề đào tạo, hoặc chấp nhận làm những công việc không phù hợp với chuyên môn để tìm cách ở lại các thành phố lớn. Thêm vào đó, một số lượng lớn các nhà khoa học nhưng không làm công tác nghiên cứu khoa học theo chuyên ngành đào tạo mà chuyển sang đảm nhiệm công tác quản lư thuần túy. Đây chính là một sự lãng phí “chất xám” tại chỗ hết sức lớn do một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực chất lượng cao không được sử dụng và đãi ngộ hợp lý.
Tóm lại, lực lượng lao động của nước ta cho đến nay phổ biến là loại lao động giản đơn. Điều này dẫn đến một thực tế là thừa tiềm tàng lao động giản đơn không có nghề, song lại thiếu nghiêm trọng lao động tŕnh độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và xuất khẩu.
Thực tế cho thấy nguồn nhân lực tại các khu công nghiệp chưa đáp ứng được cả về chất lượng và số lượng.
Do kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh tăng mạnh nên nhu cầu về lao động có xu hướng tăng nhanh. Sự khan hiếm nhân lực tập trung ở số lao động có trình độ, kỹ năng chuyên môn. Sau khi gia nhập tổ chức WTO, do thiếu sự đón đầu trong đào tạo và chuẩn bị cho hội nhập, chúng ta còn thiếu chủ động về nguồn nhân lực. Tình trạng thiếu lao động không còn dừng lại ở một số ngành nghề và địa phương mà đã trở thành vấn đề chung của tất cả các khu công nghiệp hiện nay. Theo báo cáo, mỗi năm các khu công nghiệp, khu chế xuất trên cả nước thu hút được lực lượng lao động khoảng trên 7 vạn lao động, tuy nhiên lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất (khoảng 4-5%) kỹ thuật viên chiếm 4 - 5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm hơn 30% và còn lại hơn 60% là lao động giản đơn. Tỷ lệ này cho thấy, trình độ trung bình của người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất còn rất thấp.
Ở nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá đồng nghĩa với việc gia tăng mạnh mẽ nhu cầu về mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như các khu công nghiệp. Mặt trái của quá trình công nghiệp hoá cho thấy thay vì biến người nông dân thành công nhân thì lại biến họ thành những người thất nghiệp, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Thực tế này đã trở thành một thách thức lớn, đặt ra yêu cầu cấp bách phải có những chính sách kịp thời từ phía Chính phủ cũng như doanh nghiệp nhằm tạo cho người dân có việc làm để ổn định đời sống. Các nhà quản lý chưa thực sự ý thức vấn đề bảo vệ môi trường, đảm bảo các vấn đề xã hội đời sống người lao động, nhà ở công nhân... trong quản lý hoạt động các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững khu công nghiệp, khu chế xuất dẫn tới quản lý việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, pháp luật về lao động của doanh nghiệp còn lỏng lẻo.
=> Bài học kinh nghiệm và kế hoạch hành động:
Để nâng cao chất lượng của tổng thể nguồn nhân lực, Đại hội X tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị mới của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; đồng thời đề cao việc bồi dưỡng các giá trị văn hoá cho con người Việt Nam, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đối tượng thanh niên, học sinh, sinh viên - thế hệ trẻ chủ nhân tương lai xây dựng đất nước. Văn kiện Đại hội ghi rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lư tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”.
Thứ hai, đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lư, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hóa, xã hội hóa” giáo dục. Đặc biệt, điểm mới về giáo dục mà Đại hội nêu rơ là phải thực hiện “chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” bởi vì thực tế những năm qua cho thấy giáo dục Việt Nam có nhiều bất cập, yếu kém như những tiêu cực, bệnh thành tích... trong giáo dục khá nặng nề, dẫn đến những hậu quả xấu gây bất bình trong dư luận xã hội và làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam. Do vậy, chấn hưng nền giáo dục là nhiệm vụ bức thiết phải được tiến hành trong những năm tới, trên cơ sở đó mà nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chấn hưng dân tộc, phát triển đất nước. Đồng thời, phải tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ về mô hình giáo dục: thay thế mô hình giáo dục k