Hoạt động ngân hàng là một mắt xích không thể thiếu trong sự vận động của nền kinh tế. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc, những bước phát triển mạnh đóng góp tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, trải qua 50 năm xây dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, luôn giữ vai trò đầu tàu trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trước bối cảnh cạnh tranh mới trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã thực hiện triệt để các biện pháp để lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính song song với xử lý tốt nợ tồn đọng, cơ cấu lại hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng đã không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị phần để khẳng định vị thế và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng trên địa bàn.
Trong hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, hoạt động tín dụng đóng vai trò then chốt, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Trong khi đó, khách hàng truyền thống của Ngân hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, vì thế dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp tại ngân hàng còn chưa an toàn, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội” để tìm hiểu kĩ hơn về thực trạng này.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp xây lắp.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
81 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1867 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng là một mắt xích không thể thiếu trong sự vận động của nền kinh tế. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc, những bước phát triển mạnh đóng góp tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, trải qua 50 năm xây dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, luôn giữ vai trò đầu tàu trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trước bối cảnh cạnh tranh mới trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã thực hiện triệt để các biện pháp để lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính song song với xử lý tốt nợ tồn đọng, cơ cấu lại hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng đã không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị phần để khẳng định vị thế và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng trên địa bàn.
Trong hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, hoạt động tín dụng đóng vai trò then chốt, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Trong khi đó, khách hàng truyền thống của Ngân hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, vì thế dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp tại ngân hàng còn chưa an toàn, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội” để tìm hiểu kĩ hơn về thực trạng này.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp xây lắp.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền tệ, do vậy ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều phương diện. Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định nghĩa: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện chuyển vốn từ người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư. Vì vậy, các hoạt động cơ bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác.
* Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi bắt đầu hoạt động, ngân hàng thực hiện mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng đã huy động được lượng tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế hay lượng tiền gửi không đáp ứng được nhu cầu chi trả, Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng thương mại có thể thực hiện vay của Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường vốn. Nghiệp vụ này được thực hiện chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách của NHTM.
Ngoài các hình thức huy động trên, NHTM còn thực hiện việc huy động vốn chủ sở hữu thông qua phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định… Hình thức huy động này tuy không thường xuyên song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn khi cần thiết.
* Hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM thực hiện các hoạt động tín dụng, đầu tư và trung gian khác.
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho bên đi vay, sau một khoảng thời gian nhất định bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các loại chứng khoán mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán như chứng khoán Chính phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính…
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp vốn với các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách hàng để thu phí hoa hồng…
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể, trong đó có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác theo những điều kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan hệ tín dụng bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được thực hiện càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn của ngân hàng. Phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có thể phân loại hoạt động tín dụng dựa trên các tiêu thức sau đây :
1.2.2.1. Căn cứ theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Dựa vào căn cứ này, tín dụng được chia thành 3 loại như sau:
- Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn : có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm
Tín dụng trung, dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn tín dụng ngắn hạn do có độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
1.2.2.2. Căn cứ theo hình thức tài trợ tín dụng
Theo hình thức này, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê…
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu : doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh do vậy nó được ghi vào tài sản ngoại bảng.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng. Nghiệp vụ chiết khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Độ an toàn của thương phiếu tương đối cao do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng. Hơn nữa, thương phiếu có tính thanh khoản cao nên ngân hàng có thể thực hiện tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành 2 loại:
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo : loại tín dụng này có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…
- Tín dụng có tài sản bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.2.3. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM
1.2.3.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Quan niệm về tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm.
- Tín dụng trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
- Tín dụng dài hạn : trên 5 năm tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Dựa và mục đích cho vay, tín dụng trung, dài hạn được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau:
- Cho vay kỳ hạn : thường dùng để tài trợ cho các mục đích chung của doanh nghiệp, bao gồm tài trợ mua sắm bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các thiết bị sản xuất, tài trợ vốn cho việc thanh toán các khoản nợ như nợ đến hạn mua máy móc thiết bị trả chậm nước ngoài đã được ngân hàng bảo lãnh…Việc thanh toán tiền theo định kỳ có thể bằng nhau hoặc khác nhau, có thời hạn ân hạn.
- Cho vay mua sắm máy móc thiết bị trả góp : là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp có thời hạn trên 1 năm, tiền vay là lãi được thanh toán dần cho Ngân hàng theo định kỳ. Việc thanh toán tiền vay và lãi bằng nhau theo các định kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không thích dạng này vì không thuận lợi bằng cho vay kỳ hạn (không trả được nợ trước hạn để giảm tiền lãi).
- Tài trợ theo dự án : là một hình thức cho vay trung, dài hạn trong đó ngân hàng chỉ thu hồi được vốn từ nguồn thu nhập tạo ra từ dự án và phải chịu rủi ro trong trường hợp dự án không thành công. Tài trợ theo dự án thường được áp dụng trong các dự án đầu tư hạ tầng như xây dựng đường xá, cấp nước đô thị, năng lượng...
1.2.3.2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn
* Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm
Đối tượng tài trợ của tín dụng trung, dài hạn là các nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm máy móc thiết bị, dự án xây dựng mới…của doanh nghiệp. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu. Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Hơn nữa, nguồn trả nợ cho khoản vay được lấy từ quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm.
* Rủi ro cao
Do đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn là có thời gian dài, thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng này luôn cao. Một dự án có thời gian đầu tư dài có thể chịu nhiều tác động của các yếu tố như thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi của môi trường kinh tế, chính sách pháp luật, tâm lý người dân…Hơn nữa, các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có số vốn đầu tư lớn nên khi rủi ro xảy ra sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho ngân hàng so với các khoản tín dụng ngắn hạn.
* Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung, dài hạn lớn
Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có thời hạn dài, độ rủi ro cao nên lãi suất của các khoản vay này thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Sự biến đổi lãi suất cho vay trung, dài hạn có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định, lãi suất của thị trường quốc tế hoặc sự biến đổi của chỉ số giá cả chung.
Ngoài ra, do các khoản tín dụng trung, dài hạn có tính thanh khoản thấp, khả năng chuyển đổi thành tiền thấp hoặc chịu chi phí cao nên ngân hàng thường đặt mức lãi suất cao cho các khoản vay này. Thêm vào đó, các khoản tín dụng trung, dài hạn có số vốn lớn nên thu nhập mà các khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn.
1.3. Doanh nghiệp xây lắp
1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp (hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng) là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng (Theo điều 16 Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ).
Các doanh nghiệp này thực hiện quá trình xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo các công trình nhà máy, đường xá, cầu cống, nhà cửa… nhằm phục vụ sản xuất và đời sống xã hội.
Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây lắp :
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng với chủ đầu tư, bao gồm số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian thực hiện hợp đồng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dựng theo quy định.
- Thực hiện an toàn lao động, các chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng…Thông tin rộng rãi về năng lực hoạt động của doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn.
1.3.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động của từng doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đăng ký với pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp thường bao gồm như sau:
- Xây dựng
+ Xây dựng các công trình công nghiệp, công cộng và dân dụng : các nhà máy (cơ khí, điện, điện tử viễn thông, hóa chất, hóa dầu, phân bón, may mặc da giày, thuốc lá…), văn phòng, bệnh viện, khách sạn, các khu nhà ở, chung cư, trường học, trung tâm văn hóa, trung tâm thể thao, trung tâm thương mại.
+ Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng : các công trình giao thông, đê đập, sân bay, các khu đô thị và công nghiệp, các khu chế xuất, hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải, san đắp mặt bằng.
+ Xây dựng các công trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông : nhà máy phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân phối, các hệ thống thiết bị kiểm tra, các công trình và hệ thống thông tin, viễn thông…
- Tư vấn thiết kế : tư vấn đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quản lý dự án, khảo sát địa chất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự toán, giám sát kỹ thuật công trình, kiểm tra chất lượng các công trình công nghiệp và dân dụng, thiết kế công trình điện…
- Lắp đặt
+ Lắp các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất
+ Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện…
- Chế tạo
+ Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, gạch, băng tải…
+ Chế tạo kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực…
- Hoạt động khác
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật
+ Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại hàng hóa, vật tư thiết bị
+ Xuất khẩu lao động…
1.3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp
1.3.3.1. Về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp
Sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp thường mang những đặc điểm riêng, khác với các sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực khác như mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng, yêu cầu riêng về công nghệ, quy phạm…Những đặc điểm riêng này chi phối làm cho công tác quản lý, điều hành hoạt động trong quy trình thực hiện đầu tư dễ gây ra lãng phí, thất thoát, phát sinh tiêu cực. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế, chính sách trong hoạt động xây lắp và đầu tư không thể đạt kết quả tốt nếu không nghiên cứu đặc điểm riêng biệt của ngành xây lắp cũng như đặc điểm về sản phẩm của ngành.
- Sản phẩm xây lắp là các công trình có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Sản phẩm xây lắp mang tính cố định, nơi sản xuất ra sản phẩm đồng thời là nơi sản phẩm được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các điều kiện sản xuất như vật liệu, lao động, máy móc thi công phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm công trình.
Đặc điểm này làm khó khăn cho công tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí các công trình tạm phục vụ thi công như lán trại cùng phương tiện, máy móc thiết bị làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, các doanh nghiệp xây lắp cần lựa chọn loại hình tổ chức quản lý sản xuất thích hợp, linh hoạt, tăng cường tính cơ động về mặt trang thiết bị, máy móc phục vụ thi công.
- Quá trình xây dựng lâu dài, chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, khiến cho máy móc thiết bị, công trình dễ bị hư hỏng, ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Đặc điểm này làm cho các đơn vị xây lắp không lường trước được hết những khó khăn do tác động của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình, giá thành công trình, thậm chí cả chất lượng công trình.
Hơn nữa, cũng do quá trình xây dựng kéo dài nên đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế và thi công). Dự toán là chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt tổng mức đầu tư đã duyệt.
- Sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thường được sản xuất theo đơn đặt hàng. Vì thế, chi phí bỏ vào sản xuất cũng khác nhau giữa các công trình. Chi phí cho sản phẩm xây lắp rất đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu, máy móc thi công và nhiều loại thợ các ngành nghề khác nhau.
- Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa, gây thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng công trình.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa thuận với chủ đầu tư (hay giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông thường không biết người tiêu dùng là ai, trong khi sản phẩm xây lắp đã được quy định trước giá cả, người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
- Doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm bảo hành sản phẩm xây lắp sau khi bàn giao. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ sở pháp luật và hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị