Nâng cao hiệu quả chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo của ngân hàng chính sách xã hội tại thành phố Đà Nẵng

Theo chuẩn Nghèo được HĐND thành phố thông qua vào tháng 12/2008, hộ nghèo là hộcó thu nhập bình quân từ500.000 đồng/người/tháng ởthành thịvà 400.000 đồng/người/tháng ởnông thôn trởxuống. Với chuẩn nghèo này, trên địa bàn thành phố có 32.796hộnghèo, chiếm tỷlệ 19,26% trong tổng sốhộdân cư.Trong đó, sốhộnghèo tại Quận Hải Châu là 5.080 hộtrên tổng số39.650 hộdân cư, chiếm tỷlệthấp nhất (12,81%). Sốhộnghèo chiếm tỷlệcao nhất (28,46%) là ởQuận NgũHành Sơn. Theo thống kê của thành phố Đà Nẵng, thiếu vốn, thiếu việc làm, không có kinh nghiệm làm việc, đông người phụthuộc là các nhóm nguyên nhân chủyếu dẫn tới tình trạng nghèo đói trên toàn địa bàn thành phố. Do đó, giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan trọng của chính quyền Thành phốtrong giai đoạn đến. Hỗtrợvốn sản xuất kinh doanh là một trong những giải pháp góp phần giảm nghèo.

pdf9 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2432 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hiệu quả chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo của ngân hàng chính sách xã hội tại thành phố Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 52 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH TÍN DỤNG ƯU ĐÃI HỘ NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG IMPROVING THE EFFICIENCY OF LOW-INCOME HOUSEHOLD FINANCIAL ASSISTANCE PROGRAMME OF DA NANG CITY’S BANK FOR SOCIAL POLICIES Võ Thị Thúy Anh, Phan Đặng My Phương Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Giảm nghèo và tiến đến xóa nghèo luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp chính quyền và của xã hội. Chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo là một trong những chương trình phục vụ cho mục tiêu giảm nghèo của chính phủ Việt Nam. Bài viết đánh giá hiệu quả của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo tại thành phố Đà Nẵng qua hai phương diện: khả năng quản lý vốn tín dụng ưu đãi hộ nghèo của ngân hàng chính sách xã hội nhằm giảm nghèo và hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo đối với hộ nghèo. Từ đó, chúng tôi đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn cho vay của NHCSXH và các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình đối với hộ nghèo. ABSTRACT Reducing and eliminating poverty always attract the attention of the Government and society. The financial assistance program for low-income households is one of the programs conducted by the Government of Vietnam for the benefit of poverty reduction. In this article, we evaluate the efficiency of this program in Danang city on two aspects: the management ability of the financial assistance program and its socio-economic efficiency for low-income households. Then, the solutions to the improvement of loans management efficiency of Vietnam Bank for Social Policies (VBSP) and the socio-economic efficiency of this program for low-income households can be suggested. 1. Đặt vấn đề Theo chuẩn Nghèo được HĐND thành phố thông qua vào tháng 12/2008, hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng ở thành thị và 400.000 đồng/người/tháng ở nông thôn trở xuống. Với chuẩn nghèo này, trên địa bàn thành phố có 32.796 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 19,26% trong tổng số hộ dân cư. Trong đó, số hộ nghèo tại Quận Hải Châu là 5.080 hộ trên tổng số 39.650 hộ dân cư, chiếm tỷ lệ thấp nhất (12,81%). Số hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao nhất (28,46%) là ở Quận Ngũ Hành Sơn. Theo thống kê của thành phố Đà Nẵng, thiếu vốn, thiếu việc làm, không có kinh nghiệm làm việc, đông người phụ thuộc là các nhóm nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nghèo đói trên toàn địa bàn thành phố. Do đó, giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan trọng của chính quyền Thành phố trong giai đoạn đến. Hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh là một trong những giải pháp góp phần giảm nghèo. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 53 Sự ra đời của NHCSXH Đà Nẵng từ năm 2003 đến nay đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội địa phương nói chung và đời sống việc làm, lao động sản xuất của người dân, đặc biệt là hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Trong thời gian qua, NHCSXH Đà Nẵng đã cho hàng vạn lượt hộ nghèo vay vốn. Vốn ngân hàng đã góp phần xóa đói, giảm nghèo và tạo việc làm mới cho hàng nghìn lao động. Tuy nhiên, hiện chưa có một nghiên cứu được công bố nào về hiệu quả cho vay hộ nghèo của NHCSXH tại Thành phố Đà Nẵng. Mục tiêu của bài viết là đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo tại Thành phố Đà Nẵng trên hai phương diện. Thứ nhất, đánh giá hiệu quả quản lý vốn vay trong chương trình của Ngân hàng chính sách xã hội qua các chỉ tiêu quy mô cho vay, khả năng quản lý mục đích sử dụng vốn của người vay, cho vay đúng đối tượng và khả năng thu hồi vốn. Thứ hai, đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình đối với hộ nghèo thể hiện qua các chỉ tiêu như số hộ nghèo được vay vốn, số hộ thoát nghèo, tác động của vốn vay đến thu nhập của hộ nghèo. Từ thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo của NHCSXH Đà Nẵng, bài viết đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ nghèo. 2. Hiệu quả quản lý vốn vay trong chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo của NHCSXH Đà Nẵng NHCSXH có mạng lưới giao dịch rộng khắp, có trụ sở chính đóng tại quận Thanh Khê, 5 phòng giao dịch tại các quận huyện và 41 điểm giao dịch lưu động tại các xã phường thuộc thành phố. Trong năm 2006, dư nợ cho vay hộ nghèo là 228.776 triệu đồng chủ yếu là cho vay ủy thác qua tổ chức chính trị xã hội. Qua năm 2007, dư nợ là 274.571,43 triệu đồng tăng 20%. Việc tăng trưởng dư nợ tiếp tục thể hiện qua số liệu năm 2008 với 299.823,35 triệu đồng tương ứng tăng 9%. Trong năm 2009, dư nợ cho vay hộ nghèo là 327.736 triệu đồng tiếp tục tăng 9% so với cùng kỳ năm 2008. Nguyên nhân của tình hình tăng trưởng chậm này là do việc xét duyệt cho vay còn chậm, tốc độ thu hồi nợ lớn, do khủng hoảng kinh tế thế giới, nạn thất nghiệp gia tăng. Số hộ nghèo hiện còn dư nợ trong năm 2008 là 46.650 giảm 2.855 hộ so với năm 2007, mức dư nợ bình quân trên mỗi hộ vay là 6,2 triệu đồng/hộ, tăng 1 triệu đồng so với năm 2007. Từ quý 3 năm 2009 trở đi việc giải ngân cho vay hộ nghèo ở chi nhánh NHCSXH Đà Nẵng đã có những bước chuyển biến tích cực. Chi nhánh đã tích cực triển khai thực hiện chủ trương hỗ trợ lãi suất cho vay hộ nghèo. Qua 7 tháng thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, NHCSXH Đà Nẵng đã phối hợp với UBND, các hội đoàn thể nhận ủy thác triển khai thực hiện rất tích cực, có hiệu quả. Đến 31/12/2009 tất cả khách hàng vay vốn tại NHCSXH thành phố từ 01/5/2009 đến 31/12/2009, đều được hưởng chính sách ưu đãi hỗ trợ lãi suất 4%/năm trong 24 tháng, cụ thể doanh số cho vay hộ nghèo là 91.661 triệu đồng, số lãi được hỗ trợ 1.100 triệu đồng/7.378 khách hàng. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 54 Bảng 2 cho thấy tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khoanh giảm dần qua các năm, trừ năm 2009. Tỷ lệ nợ quá hạn (nợ khoanh) năm 2008 là 0.74% (0.13%), năm 2007 là 1.01% (0.23%) và năm 2006 là 1.57% (0.33%). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nợ khoanh, nợ quá hạn cho vay hộ nghèo giảm mà là do từ năm 2003, theo quyết định 69 của Thủ tướng chính phủ và quyết định 65 của Bộ Tài chính, ngân hàng không khoanh nợ như trước đây mà chỉ xét duyệt miễn giảm, xóa nợ cho khách hàng. Do đó, nợ khoanh giai đoạn này giảm hoặc là do khách hàng trả được nợ, hoặc là do khách hàng được xóa nợ. Nợ quá hạn phát sinh trong giai đoạn 2006-2008 không được đưa vào nội bảng. Năm 2009, nợ quá hạn thực tế được chuyển vào nội bảng nên tỷ lệ nợ quá hạn tăng vọt. Một số khoản nợ khoanh trước đây cũng được chuyển vào nội bảng nên tỷ lệ nợ khoanh tăng vọt. Việc xử lý nợ quá hạn, nợ khoanh là một thách thức lớn đối với ngân hàng khi tỷ lệ này còn quá cao, đặc biệt là nợ quá hạn đối với cho vay ủy thác thông qua Hội cựu Chiến binh. Nợ quá hạn của NH có thể phân thành các nhóm cơ bản sau: Nhóm nợ quá hạn có số dư từ 500 nghìn đến 1 triệu đồng do việc cho vay bình quân phân đều trước đây, phần lớn số vốn này chủ yếu dùng vào sinh hoạt chi tiêu gia đình, người vay xem đây là khoản hỗ trợ của nhà nước; Nhóm nợ không ai đòi, đây là nhóm nợ mà từ khi nhận tiền vay về người vay chưa bao giờ gặp lại cán bộ Ngân hàng, mặc dù món vay rất phát huy hiệu quả, người vay đủ khả năng trả nợ; Nhóm nợ mà người vay bỏ đi làm ăn xa hoặc cố tình chây ỳ không chịu trả nợ, do Ngân hàng chưa có một giải pháp xử lý nào; Nhóm nợ do thiên tai dịch bệnh, làm ăn thua lỗ, người vay già yếu, người thừa kế không có khả năng trả nhưng chưa được kiểm tra, xử lý. Trong những năm qua, tình trạng xâm tiêu vốn của các tổ trưởng có chiều hướng tăng lên. Qua công tác đối chiếu toàn thành phố đã phát hiện ra nhiều trường hợp xâm tiêu vốn với số tiền khá lớn. Năm 2008 số nợ xâm tiêu là 2041 triệu đồng với 83 trường hợp, tăng 1318 triệu đồng so với năm trước. Đến năm 2009 tổng số vụ chiếm dụng, xâm tiêu còn tồn đọng là 71 vụ tương ứng 1.598 triệu đồng. Bên cạnh đó, qua kiểm tra, giám sát các phường, cho thấy một số Ban giảm nghèo phường làm việc chưa đều tay, cán bộ chuyên trách giảm nghèo chưa nắm chắc số liệu, tình hình vay vốn, trả nợ của các hộ nên làm hạn chế việc tham mưu cho Trưởng ban giảm nghèo, một số thành viên Ban chỉ đạo giảm nghèo thay đổi, thiếu tính ổn định, cũng làm giảm hiệu quả hoạt động với NHCSXH, do chưa nắm được các văn bản chỉ đạo từ Chính phủ và của Hội đồng quản trị, NHCSXH. Đồng thời, ban quản lý Tổ TK&VV chưa tổ chức sinh hoạt tổ đúng quy chế. Công tác thu lãi phần lớn dồn vào tổ trưởng, ít tổ có đủ ban quản lý tổ hoạt động trong khi có người đủ điều kiện tham gia. Việc lưu giữ hồ sơ pháp lý của các Tổ TK&VV tại Hội đoàn thể các phường được kiểm tra chưa liên tục, gọn gàng, thiếu tính hệ thống. Một số Hội công tác theo dõi, quản lý vốn ủy thác tập trung vào Chủ tịch hội, đến khi Chủ tịch hội đi vắng, thì phó chủ tịch còn lúng túng, nắm không vững tình hình thực tế. Công tác kiểm tra sử dụng vốn vay chưa được Hội đoàn thể quan tâm TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 55 đúng mức, chưa phát huy được hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý các Tổ TK&VV, sau khi kiểm tra chưa gửi báo cáo kết quả cho NHCSXH trên địa bàn để phối hợp xử lý. Qua kiểm kê, đối chiếu nợ còn nhiều trường hợp chưa xác nhận được nợ, chủ yếu là các khoản nợ cũ trước đây do Chủ tịch phường cũ đứng tên, do bị chiếm dụng xâm tiêu… Một số địa bàn do trình độ dân trí thấp, do đặc thù người dân làm nghề biển phải đi dài ngày… nên ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ triển khai công tác đổi sổ vay vốn. Quy trình cho vay của NHCSXH được đánh giá là đơn giản, phù hợp với trình độ của hộ nghèo. Có tới 84,99% số hộ cho rằng quy trình cho vay là rất đơn giản, 12,14% cho rằng đơn giản và 2,43% đánh giá là phù hợp với trình độ của họ. Bên cạnh đó, chỉ có 2,20% số hồ sơ xin vay vốn bị ngân hàng từ chối. Có thể thấy rằng NHCSXH đã cố gắng tối đa trong việc hỗ trợ, giải ngân vốn vay cho các hộ nghèo để họ có vốn sản xuất kinh doanh1. Tính hợp lý trong chính sách cho vay của NHCSXH được đánh giá khá cao. Sau đây là bảng số liệu về tỷ lệ các khách hàng đánh giá các chính sách cho vay của NHCSXH: Bảng 1. Đánh giá của hộ nghèo về các yếu tố của chính sách cho vay Chỉ tiêu % hộ đánh giá hợp lý và rất hợp lý Chỉ tiêu % hộ đánh giá hợp lý và rất hợp lý Lãi suất 95.80 Thời gian bình xét 93.97 Điều kiện vay vốn 96.44 Giá trị món vay 93.94 Thời hạn vay 93.45 Cách thức trả nợ 87.73 Cách bình xét 95.18 Tốc độ giải ngân 0.15 Quy trình cho vay 96.27 Phần lớn các hộ nghèo cho rằng lãi suất, điều kiện vay vốn, cách bình xét, quy trình cho vay của NH là hợp lý. Tuy nhiên, có đến trên 99% hộ cho rằng quy trình giải ngân của ngân hàng không hợp lý và hơn 12% hộ cho rằng cách thức trả nợ không hợp lý. Ngân hàng cần chú ý xem xét đến hai vấn đề này nhằm tạo điều kiện cho hộ nghèo trong việc sử dụng vốn và trả nợ. 1 Theo khảo sát của Võ Thị Thúy Anh và cộng sự với mẫu điều tra 461 hộ nghèo tại thành phố Đà Nẵng, trong “Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của chương trình tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo của ngân hàng chính sách xã hội Việt nam - Khảo sát trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số B2009-ĐN04-36. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 56 3. Hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo đối với hộ nghèo tại thành phố Đà Nẵng2 Trong năm 2007 số lượt hộ nghèo được vay vốn tăng 36% so với năm 2006 tương ứng với 5,762 lượt. Tuy nhiên trong năm 2008 số lượt hộ nghèo được tiếp cận với vốn vay tại chi nhánh có sự giảm sút chỉ còn lại 11031 và con số này chỉ còn lại 7098 trong năm 2009. Vốn vay đã có những tác động tích cực đến đời sống của các hộ nghèo. Tác động giảm nghèo Vốn tín dụng Ngân hàng đã đến 100% xã, phường, hầu hết hộ nghèo và các đối tượng chính sách có nhu cầu vay đều được đáp ứng vốn, góp phần giảm nhanh số hộ nghèo năm 2009 từ 19,26% xuống còn 13,68% (giảm 5,58% so với đầu năm- tương ứng giảm 10.737 hộ nghèo). Sau khi được vay vốn tại NHCSXH, các hộ gia đình đều rất lạc quan khi có tới 94,46% trong mẫu điều tra cho rằng gia đình mình sẽ thoát nghèo nhờ việc sử dụng tiền vay cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Thúy Anh (2010) đã vận dụng mô hình Tobit, Logit trong nghiên cứu tác động của chương trình tín dụng ưu đã hộ nghèo đến xác suất thoát nghèo kỳ vọng. Kết quả ước lượng cho thấy, số tiền vay có tác động tích cực đến xác suất thoát nghèo kỳ vọng. Tác động đến việc làm và thu nhập của hộ gia đình Theo kết qua thu thập được từ 461 hộ nghèo vay vốn, số người tham gia vào các phương án sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay từ NHCSXH ở các hộ chủ yếu là từ 1 đến 2 người, chiếm 85% tổng số các hộ, trong đó có 1 phương án sản xuất có 8 người trong gia đình cùng tham gia. Số người trung bình tham gia vào các dự án có sử dụng vốn vay từ NHCS là 1,76 người. Thời gian lao động tăng thêm trung bình trong 1 tuần nhờ sử dụng vốn vay là khoảng 10,86 giờ. Hình 1. Hiệu quả kinh tế của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo Số người tham gia P.A SXKD 0.26 44.13 41.78 8.88 3.92 0.78 0.26 0 10 20 30 40 50 0 1 2 3 4 5 8 Người % Thu nhập tăng thêm nhờ dự án vay vốn KD từ NHCSXH 2.11% 20.61% 16.63% 12.18% 10.07% 10.30% 6.09% 2.11% 0.94% 4.68% 14.29% 0% 5% 10% 15% 20% 25% 0% 0% - 5% 5%-10% 10%-15% 15%-20% 20%-25% 25%-30% 30%-35% 35%-40% trên 40% không xác định được Hiệu quả do vốn vay mang lại là rất đáng kể. Theo số kết quả có được từ cuộc điều tra thì chỉ có 2,11% các hộ không thể cải thiện được thu nhập của mình; các hộ còn lại đều đã tăng được thu nhập của mình, đặc biệt có tới 0,94% các hộ tăng thu nhập trên 40%. 2 Trong phần này, bên cạnh nguồn dữ liệu do NHCSXH cung cấp, chúng tôi còn sử dụng dữ liệu từ khảo sát trực tiếp 461 hộ nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 57 Cùng với việc tăng thu nhập, đời sống của các hộ gia đình cũng được cải thiện đáng kể. Theo kết quả điểu tra thì có tới 73,29% các hộ cho rằng đời sống của mình được cải thiện, 13,02% cho rằng cải thiện nhiều và 6,4% cải thiện rất nhiều. Bên cạnh đó, có 75,82% các hộ cho rằng việc sản xuất kinh doanh của mình phát triển hơn trước, 8,57% cho là phát triển nhiều hơn trước và 5,27% đánh giá công việc phát triển rất nhiều so với trước khi vay vốn. Thúy Anh (2010) đã vận dụng mô hình Tobit, Logit trong nghiên cứu tác động của chương trình tín dụng ưu đã hộ nghèo đến đến mức độ cải thiện đời sống và mức độ phát triển sản xuất kinh doanh của hộ nghèo. Kết quả ước lượng cho thấy, số tiền vay có tác động dương đến xác suất thoát nghèo kỳ vọng. Thời gian vay vốn càng dài thì khả năng cải thiện đời sống và mức độ phát triển sản xuất kinh doanh của hộ nghèo càng cao. Tóm lại, qua đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo qua hai góc độ: khả năng quản lý vốn vay của NHCSXH và hiệu quả tác động của chương trình đến hộ nghèo, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau: Dư nợ cho vay hộ nghèo tăng trưởng qua các năm nhưng mức tăng còn chậm. Số lượng hộ nghèo vay vốn giảm; Hoạt động cho vay hộ nghèo góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 19,26% năm 2008 xuống còn 13,68% năm 2009, tức giảm 10.373 hộ nghèo; Nợ quá hạn, nợ khoanh còn cao. Tỷ lệ nợ quá hạn của phương thức cho vay trực tiếp cao hơn rất nhiều so với phương thức cho vay ủy thác thông qua hội đoàn thể. Tình trạng xâm tiêu vốn của tổ trưởng có xu hướng tăng lên; Mặc dù quy trình, thủ tục cho vay của NHCSXH được phần lớn các hộ gia đình trong mẫu khảo sát đánh giá là đơn giản và rất đơn giản, nhưng tốc độ giải ngân và cách thức thu nợ của ngân hàng không hợp lý; Trình độ của cán bộ cơ sở trong cho vay hộ nghèo còn thấp và chưa đồng đều; Vốn vay có tác động tích cực đến giảm nghèo, thu nhập, mức độ cải thiện đời sống, việc làm của hộ nghèo. 4. Các kiến nghị, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình tín dụng ưu đãi hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội Đà Nẵng 4.1. Các giải pháp đối với NH CSXH Đà Nẵng Nhóm giải pháp hạn chế nợ quá hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của hộ nghèo Để hạn chế và kiểm soát nợ quá hạn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của hộ nghèo, trong thời gian đến, NH cần xem xét các giải pháp sau: - Hoàn thiện khâu bình xét cho vay từ cơ sở một cách dân chủ công khai để lựa chọn những hộ vay đúng đối tượng, sử dụng vốn vay có hiệu quả, tránh tình trạng cho vay không đúng đối tượng hoặc các hộ vay vốn cho mục đích tiêu dùng, sử dụng vốn sai mục đích. - NH cần có sự phối hợp tốt hơn với các hội đoàn thể, các trưởng thôn, phụ trách khối phố để đáp ứng tốt nhu cầu vốn của các hộ nghèo, đưa ra mức cho vay và thời hạn cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của hộ nghèo về thời điểm, mức vay, thời hạn cho vay, tránh tình trạng phân bổ mang tính bình quân như hiện nay. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 58 - NH cần thực hiện kiểm tra chéo đột xuất giữa các cán bộ tín dụng phụ trách các khoản vay nhằm tránh tình trạng cán bộ tín dụng “quên” khoản vay. - NHCSXH phải phối hợp với các hội đoàn thể, tổ vay vốn để kiểm tra tình hình sử dụng vốn với nhiều hình thức như kiểm tra tại chỗ, kiểm tra định kỳ, kiểm tra chéo, kiểm tra đột xuất… nhằm có biện pháp xử lý kịp thời những sai sót để uốn nắn, sửa chữa kịp thời. - Nâng cao chất lượng nâng cao hoạt động các điểm giao dịch lưu động tại xã, phường, chất lượng hoạt động ủy thác và chất lượng hoạt động của các Tổ TK&VV. Đảm bảo 100% giao dịch (giải ngân, thu nợ, thu lãi) được thực hiện tại các điểm giao dịch. Củng cố và duy trì cuộc họp giao ban theo định kỳ với các tổ chức chính trị xã hội. Tại điểm giao dịch phải công khai số dư nợ của từng hộ, đặc biệt là số hộ có nợ quá hạn. Ngoài ra chi nhánh nên thường xuyên phát động các phong trào thi đua: xã, phường, cán bộ tín dụng không có nợ quá hạn. - Đối với Tổ TK&VV: Cần tuyên truyền và hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ, thủ tục lập hồ sơ vay vốn, cũng như cách quản lý và phương pháp theo dõi trên sổ sách cho các tổ trưởng Tổ TK&VV. Tùy từng tình hình thực tế của các xã, phường mà các tổ trưởng Tổ TK&VV thực hiện củng cố, sáp nhập, thành lập tổ mới… Khi hướng dẫn thủ tục vay vốn và tiến hành bình xét phải tuyên truyền nâng cao nhận thức của nguời vay trong trách nhiệm sử dụng vốn đúng mục đích và hoàn trả vốn. Định kỳ kiểm tra đối chiếu, theo dõi việc ghi chép sổ sách của Tổ TK&VV. Xử lý dứt điểm và nghiêm minh trước pháp luật các tổ trưởng xâm tiêu, chiếm dụng vốn. Hàng tháng duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc Họp giao ban với Hội đoàn thể phường, xã tại điểm giao dịch vào ngày giao dịch đã quy định. Thường xuyên phối hợp với các Hội đoàn thể, Tổ TK&VV xem xét xử lý nợ một cách kịp thời khi hộ vay có nhu cầu như: cho vay lưu vụ, gia hạn nợ, cho vay bổ sung, xử lý nợ rủi ro … Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ đặc biệt đối với cán bộ tín dụng, Tổ trưởng Tổ TK&VV nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Hoàn thiện quy trình và thủ tục vay vốn Để tạo điều kiện cho hộ nghèo sử dụng vốn có hiệu quả, NH cần phải đưa ra cách thức giải ngân linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và dự án sản xuất của hộ nghèo. Bên cạnh đó, NH cũng nên tạo điều kiện cho hộ nghèo trả nợ bằng cách thức phù hợp với khả năng thu hồi vốn của họ, tránh trường hợp cứng nhắc trong quy trình thu nợ, gây khó khăn cho hộ nghèo. 4.2. Kiến nghị với Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và các hội, đoàn thể Ủy ban nhân dân thành phố cần phối hợp với NHCSXH trong việc đào tạo nghề, hướng dẫn sử dụng vốn và tư vấn kinh doanh gắn liền với việc cho vay vốn. Cụ thể như sau: Các chương trình đào tạo nghề của thành phố cần thiết thực, phù hợp với độ tuổi, khả n
Luận văn liên quan