Trước khi giấy viết ra đời, ngay từ thời cổ con người đã biết viết, biết vẽ trên nhiều chất liệu khác nhau như đá, mai rùa, xương thú vật, đất sét, đất nung, thẻ tre, nứa, trúc, lá cọ, lụa, đồng, . Từ xa xưa, ở nước ta, cả người Kinh lẫn người Thái, Mường, Tày, Nùng, Chăm, Khơmer,. đều đã biết viết vẽ trên một số chất liệu như vậy.
Ngày nay, người ta đã khẳng định một người Trung Quốc tên là Thái Luân sống vào đầu thời Hán chính là người đầu tiên phát minh ra giấy. Ông được người Trung Quốc tôn làm ông Tổ của nghề làm giấy. Giấy viết ra đời thực sự đánh dấu một bước phát triển cao của khoa học - kỹ thuật và đưa loài người bước vào kỷ nguyên văn minh. Giấy là loại sản phẩm đặc biệt, phục vụ rộng rãi các lĩnh vực từ văn hoá, giáo dục, sản xuất công nông nghiệp đến những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con người. Chính vì thế, đã có lúc người ta đánh giá trình độ văn minh của một quốc gia qua lượng tiêu thụ giấy bình quân đầu người của nước đó. Ngành giấy, vì thế, đã trở thành một ngành được xã hội dành cho nhiều ưu đãi. Ngành giấy Việt Nam cũng vậy, cũng được Nhà nước dành cho rất nhiều ưu đãi và đã có một lịch sử phát triển tương đối lâu dài.
Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang là một xu thế diễn ra hết sức mạnh mẽ trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra từng ngày, từng giờ ở Việt Nam. Đứng trước xu thế đó, ngành giấy - một ngành được coi là "đứa con cưng" của công nghiệp Việt Nam - sẽ làm gì để khắc phục những khó khăn, thách thức do quá trình hội nhập đặt ra, làm gì để tận dụng những cơ hội mà hội nhập đem lại và làm gì để biến những thách thức thành cơ hội cho chính mình? Câu hỏi đó chính là lý do thúc đẩy tôi tìm hiểu sâu hơn về ngành giấy Việt Nam để có thể đóng góp một số giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại của ngành giấy, đưa ngành giấy bắt kịp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực của cả nước hiện nay.
Tôi đã chọn đề tài: "Ngành giấy Việt Nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu Á" cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn bao gồm các phần sau:
• Chương I: Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy khu vực châu Á
• Chương II: Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực
• Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực
96 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngành giấy Việt Nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC
Sinh viên : BÙI THỊ QUỲNH TRANG
Lớp : A4-K38B KTNT
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................... 4
Chương I: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY KHU VỰC CHÂU Á..................................................................................................................... 6
I. Vai trò của ngành giấy trong nền kinh tế thị trường 6
II. Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy các nước trong
khu vực châu á 10
1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng giấy 10
2. Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng giấy 17
2.1. Thị trường bột giấy 17
2.2. Thị trường giấy loại 19
2.3. Thị trường giấy thành phẩm 20
III. Dự báo nhu cầu của thế giới và khu vực đối với mặt hàng giấy
trong thời gian tới 21
1. Thị trường giấy 21
2. Thị trường bột giấy 24
Chương II: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC............................ 26
I. Vài nét khái quát về lịch sử phát triển của ngành giấy Việt Nam 26
1. Nghề làm giấy cổ truyền và những tiền đề để phát triển ngành giấy ở
Việt Nam 26
2. Vài nét về công nghiệp giấy nước ta 30
II. Tình hình sản xuất kinh doanh của ngành giấy Việt Nam trong
những năm gần đây 33
1. Tình hình sản xuất các mặt hàng giấy của Việt Nam 33
2. Tình hình tiêu thụ các mặt hàng giấy của Việt Nam 38
2.1.Tình hình tiêu thụ trong nước 38
2.2. Tình hình xuất khẩu ra nước ngoài 40
3. Tình hình nhập khẩu các mặt hàng giấy từ nước ngoài 41
3.1. Thị trường nhập khẩu 41
3.2. Kim ngạch nhập khẩu 42
III. Những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành giấy Việt Nam 44
1. Khó khăn 44
1.1. Còn quá nhiều bất cập trong việc cung cấp nguyên liệu cho
ngành giấy 44
1.2. Công nghệ lạc hậu 48
1.3. Trình độ quản lý yếu kém 49
1.4. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp 50
1.5. Thủ tục phê duyệt dự án đầu tư phức tạp và kéo dài 53
1.6. Quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm chạp 54
2. Thuận lợi 55
2.1. Nhu cầu của thị trường nội địa đối với mặt hàng giấy tương đối lớn 55
2.2. Vùng nguyên liệu trong nước rất rộng lớn 56
2.3. Đây là ngành được Nhà nước quan tâm đầu tư 59
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC................................................................................................................... 61
I. Các cơ hội và thách thức đối với ngành giấy Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế khu vực 61
1. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam 61
2. Các cơ hội 64
3. Các thách thức 66
II. Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam 67
1. Về phía Nhà nước 67
1.1. Xây dựng phương án chủ động về nguyên liệu cho ngành giấy 67
1.2. Xúc tiến việc triển khai các dự án đầu tư cho ngành giấy 74
1.3. Định hướng lại chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường 75
1.4. Thúc đẩy quá trình cổ phần hoá ngành giấy 77
2. Về phía doanh nghiệp 78
2.1. Nâng cao trình độ công nghệ 78
2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm 83
2.3. Nâng cao trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh 85
2.4. Tăng cường các biện pháp xúc tiến thương mại 86
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................90
LỜI NÓI ĐẦU
Trước khi giấy viết ra đời, ngay từ thời cổ con người đã biết viết, biết vẽ trên nhiều chất liệu khác nhau như đá, mai rùa, xương thú vật, đất sét, đất nung, thẻ tre, nứa, trúc, lá cọ, lụa, đồng, ... Từ xa xưa, ở nước ta, cả người Kinh lẫn người Thái, Mường, Tày, Nùng, Chăm, Khơmer,... đều đã biết viết vẽ trên một số chất liệu như vậy.
Ngày nay, người ta đã khẳng định một người Trung Quốc tên là Thái Luân sống vào đầu thời Hán chính là người đầu tiên phát minh ra giấy. Ông được người Trung Quốc tôn làm ông Tổ của nghề làm giấy. Giấy viết ra đời thực sự đánh dấu một bước phát triển cao của khoa học - kỹ thuật và đưa loài người bước vào kỷ nguyên văn minh. Giấy là loại sản phẩm đặc biệt, phục vụ rộng rãi các lĩnh vực từ văn hoá, giáo dục, sản xuất công nông nghiệp đến những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con người. Chính vì thế, đã có lúc người ta đánh giá trình độ văn minh của một quốc gia qua lượng tiêu thụ giấy bình quân đầu người của nước đó. Ngành giấy, vì thế, đã trở thành một ngành được xã hội dành cho nhiều ưu đãi. Ngành giấy Việt Nam cũng vậy, cũng được Nhà nước dành cho rất nhiều ưu đãi và đã có một lịch sử phát triển tương đối lâu dài.
Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang là một xu thế diễn ra hết sức mạnh mẽ trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra từng ngày, từng giờ ở Việt Nam. Đứng trước xu thế đó, ngành giấy - một ngành được coi là "đứa con cưng" của công nghiệp Việt Nam - sẽ làm gì để khắc phục những khó khăn, thách thức do quá trình hội nhập đặt ra, làm gì để tận dụng những cơ hội mà hội nhập đem lại và làm gì để biến những thách thức thành cơ hội cho chính mình? Câu hỏi đó chính là lý do thúc đẩy tôi tìm hiểu sâu hơn về ngành giấy Việt Nam để có thể đóng góp một số giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại của ngành giấy, đưa ngành giấy bắt kịp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực của cả nước hiện nay.
Tôi đã chọn đề tài: "Ngành giấy Việt Nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu Á" cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn bao gồm các phần sau:
Chương I: Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy khu vực châu Á
Chương II: Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực
Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thạc sĩ Phạm Thu Hương, xin cảm ơn Khoa Kinh tế ngoại thương đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp của mình
Hà Nội ngày 7/12/2003
Sinh viên
Bùi Thị Quỳnh Trang
Chương I
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY KHU VỰC CHÂU Á
I. Vai trò của ngành giấy trong nền kinh tế thị trường
Trong cơ cấu công nghiệp của các nước, ngành sản xuất bột giấy và giấy được xếp là một ngành công nghiệp nặng bởi ngành này mang đầy đủ các đặc trưng của một ngành công nghiệp nặng.
Thứ nhất, vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành giấy là rất lớn vì khi tiến hành một dự án đầu tư vào ngành này, ta không những phải đầu tư cơ sở, dây chuyền sản xuất các sản phẩm giấy mà còn phải tính đến việc xây dựng vùng nguyên liệu cung cấp bột cho dự án sản xuất giấy. Chỉ xét riêng chi phí dành cho xây dựng cơ sở, dây chuyền sản xuất đã là một con số rất lớn. Để đầu tư một máy giấy mới, chi phí trung bình đã là 1000 đến 1500 USD cho một tấn sản phẩm một năm (tính cho riêng thiết bị). Do đó, để đầu tư một dây chuyền sản xuất giấy in và giấy viết (giấy cao cấp) có công suất 50.000 tấn/năm thì chi phí đầu tư thiết bị sẽ lên đến 50 đến 75 triệu USD. Với những dây chuyền sản xuất có công suất lớn hơn thì chi phí đầu tư cũng lớn hơn nhiều lần. Lấy dây chuyền sản xuất cáctông hòm hộp từ nguyên liệu giấy loại được đầu tư bởi Cheng Loong - nhà sản xuất giấy giấy bao gói lớn nhất Đài Loan và hai nhà sản xuất giấy khác của Nhật Bản là Tokai Pulp & Paper và Mitsubishi Corporation làm ví dụ. Với công suất đạt 300.000 tấn/năm, tổng mức đầu tư của dây chuyền đã lên tới 130 triệu USD - một con số không hề nhỏ. Một ví dụ nữa là dây chuyền sản xuất cáctông hòm hộp 4 lớp mặt trắng (WLC) có tráng mà Metso Paper kết hợp với công ty Valmet-Tây An (Trung Quốc) cung cấp cho công ty Dongguan Jian Hui (Trung Quốc) được lắp đặt tại tỉnh Quảng Đông và dự kiến sẽ được khởi chạy vào tháng 4-2004. Tổng giá trị hợp đồng ước tính khoảng 35 triệu EURO. Dự án nhà máy bột giấy KonTum đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 873/QĐ-TTg ngày 13/09/1999 cũng là một ví dụ. Với công suất 130.000 tấn/năm, tổng mức đầu tư cho dự án dự kiến đã là 239,5 triệu USD và trên thực tế có thể còn lớn hơn.
Thứ hai, chi phí đầu tư lớn khiến cho thời gian thu hồi vốn kéo dài, vốn quay vòng rất chậm. Với chi phí đầu tư cho mỗi dây chuyền sản xuất lớn như vậy, được tính bằng con số hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD thì doanh thu của toàn Tổng công ty giấy Việt Nam dường như quá khiêm tốn. Năm 1995, tổng doanh thu của Tổng công ty là 1.306 tỷ VND, đến năm 1998 lên tới 2.274 tỷ VND, năm 1999 đạt 2.100 tỷ VND... Với doanh thu như vậy thì liệu đến bao giờ máy móc mới được khấu hao hết?
Hơn nữa, khả năng sinh lời của ngành giấy lại không cao. Lợi nhuận thu về rất nhỏ so với tổng doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp ngành giấy rất thấp, chỉ đạt 1%-2%, thấp hơn rất nhiều so với các ngành công nghiệp khác.
Vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, khả năng sinh lời không cao, vậy tại sao nhiều nước vẫn tiếp tục đầu tư để duy trì và phát triển ngành công nghiệp sản xuất bột giấy và giấy? Nguyên nhân là bởi ngành này mặc dù còn nhiều hạn chế như vậy nhưng lại có nhiều tác động tới quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của từng địa phương nói riêng và cả quốc gia nói chung.
Tác động tới nền kinh tế đất nước và phát triển kinh tế địa phương
Thứ nhất, hàng năm ngành giấy đã đóng góp trực tiếp cho ngân sách của Nhà nước thông qua việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp thuộc ngành giấy phải nộp các loại thuế: thuế lợi tức, thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng cho chính quyền địa phương và trung ương.
Thứ hai, các doanh nghiệp sản xuất giấy tiêu thụ rất nhiều nguyên vật liệu sản xuất trong nước như nguyên liệu giấy (gỗ, tre, nứa...), than, bột đá, muối,... Điều này đồng nghĩa với việc góp phần làm tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho những người cung cấp nguyên nhiên vật liệu nội địa như khai khoáng, lâm nghiệp, hoá chất và dầu khí. Đến lượt mình, các ngành này lại làm tăng thêm hoạt động của các ngành phục vụ khác có liên quan đến hoạt động của nó.
Ngành giấy và bột giấy gắn liền với việc trồng rừng và bảo vệ môi trường, tăng khả năng giữ nước ở các khu vực đất cao đã nâng cao sản lượng nông nghiệp, góp phần vào các chương trình xoá đói giảm nghèo ở những vùng sâu, vùng xa.
Ngành này còn tạo đầu ra cho các sản phẩm lâm nghiệp. Các sản phẩm thu được từ rừng như gỗ thông, bạch đàn, keo, luồng và các loài tre ... đều có thể sử dụng làm nguyên liệu cho ngành giấy. Ngành giấy phát triển kéo theo việc trồng rừng được quan tâm nhiều hơn không chỉ về mặt lượng mà cả về mặt chất, tức là không chỉ được khuyến khích tăng thêm diện tích rừng trồng mà còn được đầu tư cho việc nghiên cứu lai tạo các loại giống cây mới, nghiên cứu điều kiện địa lý khí hậu từng vùng để xác định loại cây trồng phù hợp và phương thức chăm sóc hiệu quả ... Khuyến khích trồng rừng một mặt góp phần tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống và ổn định thu nhập cho người dân địa phương, mặt khác còn có tác động rất tích cực đến môi trường. Diện tích rừng mở rộng giúp cải thiện điều kiện môi trường, làm giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày một nặng nề. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp giấy còn sử dụng các nguồn nguyên liệu từ giấy vụn, giấy loại, bã mía, ... cũng là một cách để làm giảm ô nhiễm môi trường. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước châu Á điển hình có tỷ lệ sử dụng giấy vụn tái sinh cao trên thế giới. Tỷ lệ bột giấy từ giấy loại thu hồi để tái chế sử dụng tại Hàn Quốc lên đến 72%. Xuất phát từ những lý do này mà trên thế giới, các nước có diện tích đất đai lớn như Inđônêxia, Thái Lan, Ôtxtrâylia, ... đều chú trọng phát triển công nghiệp bột giấy và giấy.
Mặt khác, công nghiệp bột giấy và giấy là ngành công nghiệp sử dụng hầu hết các sản phẩm của các ngành công nghiệp khác. Trước tiên phải kể đến ngành động lực và cơ khí. Để phát triển công nghiệp bột giấy và giấy, cần phải trang bị rất nhiều loại máy móc trang thiết bị như máy xeo giấy, máy tráng, hệ thống ép, sấy,... có giá trị rất lớn. Muốn nâng cao hiệu quả và năng suất lao động phải sử dụng các sản phẩm của ngành điều khiển và tin học. Đặc biệt trong công nghiệp giấy sử dụng rất nhiều các sản phẩm của ngành hoá chất như xút, sunfat, perôxit hyđrô, silicat natri,... ngay từ công đoạn đầu tiên sản xuất bột giấy cho đến những công đoạn sau này. Ngay cả những thành tựu của công nghệ sinh học cũng đã được áp dụng rất triệt để vào các công đoạn của quá trình sản xuất giấy. Trước tiên là áp dụng vào việc tạo giống cây trồng. Công nghệ sinh học giúp các nhà nghiên cứu tạo ra được những giống cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, cho năng suất cao, có vòng đời ngắn, kỹ thuật chăm sóc đơn giản thay thế cho những loại cây lấy gỗ truyền thống trước đây, ví dụ như các dòng vô tính bạch đàn (PN2, PN14, PND3, GU8, U6), các dòng vô tính keo lai (BV10, BV16, BV32) và nhiều dòng khác đang được khảo nghiệm hoặc đã đưa vào sản xuất đại trà. Ngoài ra công nghệ sinh học còn tạo ra nhiều chế phẩm ứng dụng trực tiếp vào sản xuất giấy như các loại enzym dùng trong công nghệ tẩy trắng bột giấy, ...
Không chỉ vậy, ngành giấy còn góp phần làm hình thành nên một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp khác. Đó là ngành gia công, chế biến các sản phẩm từ giấy của các nhà máy như: xén, kẻ giấy, đóng tập vở, làm bìa cáctông,...
Thứ ba, ngành giấy sản xuất ra các sản phẩm như giấy viết, giấy in, giấy photocopy, khăn giấy, các loại giấy chuyên dụng,... đáp ứng nhu cầu trong nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất kinh doanh. Việc tự đáp ứng được nhu cầu trong nước sẽ góp phần giảm được nhập khẩu giấy, tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước.
Thứ tư, ngoài những đóng góp cho nền kinh tế của cả quốc gia, việc xây dựng các nhà máy sản xuất giấy tại các địa phương cũng có nhiều đóng góp cho nền kinh tế của chính địa phương đó. Lấy ví dụ như Nhà máy giấy Bãi Bằng đặt tại huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của cả tỉnh. Ngoài việc đóng góp gián tiếp thông qua việc tạo thu nhập ổn định cho trên 3.000 cán bộ, công nhân viên và gia đình họ, nhà máy còn tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các hoạt động kinh tế của địa phương qua việc mua nguyên vật liệu và bán sản phẩm cho các công đoạn gia công tiếp theo cho các cơ sở sản xuất của địa phương. Theo thống kê, có khoảng 80% hàng bán của các doanh nghiệp địa phương là phục vụ hoặc trực tiếp cho nhà máy hoặc gián tiếp cho các nhu cầu phát sinh từ nhà máy. Tính đến hết năm 2002, huyện Phong Châu có 42 cơ sở xén kẻ giấy, 2 cơ sở xeo giấy vệ sinh, 3 cơ sở sản xuất vôi, một số cơ sở chế biến than xỉ, sản xuất cáctông, keo thuỷ tinh,... với hàng trăm lao động.
Tác động tới việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
Mỗi một nhà máy giấy được xây dựng sẽ kéo theo hàng loạt các chương trình đào tạo nghề, đào tạo chuyển giao kiến thức quản lý và vận hành nhà máy, chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho cán bộ quản lý, thành lập và hỗ trợ trường dạy nghề giấy,... Các chương trình này không chỉ giúp nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên về kiến thức kỹ thuật chuyên ngành giấy mà còn bổ sung các kiến thức về quản lý, về kinh tế và các kiến thức luật pháp, chính trị,...
II. Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy các nước trong khu vực châu á
1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng giấy
Trong những năm gần đây, các nước trong khu vực bị ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm dẫn đến nhu cầu giấy và năng lực sản xuất giấy cũng bị giảm sút đáng kể, trừ một số nước như Trung Quốc, Việt Nam.
Thêm nữa, sự bùng nổ của dịch viêm phổi cấp tính (SARS) trong thời gian vừa qua đã gây nên ảnh hưởng tiêu cực đối với công nghiệp bột giấy và giấy châu Á. Trung Quốc, Hồng Kông và Xingapo là những quốc gia được báo cáo là có tỷ lệ nhiễm dịch cao nhất khu vực và nền kinh tế của các nước này đã và đang phải hứng chịu hậu quả trực tiếp của bệnh dịch.
Cáctông hòm hộp là sản phẩm bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Trong tháng 6-2003, dịch bệnh lên đến đỉnh điểm đã khiến cho nhiều hoạt động mua bán bị đình trệ. Ngay từ cuối tháng 4-2003, một số ít nhà cung cấp Trung Quốc đã giảm giá OCC (cáctông hòm hộp cũ) xuống 10 USD/tấn nhằm tăng sức mua của khách hàng nhưng động thái này dường như không mấy hiệu quả. Hàng loạt hội chợ thương mại tại Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Xingapo bị huỷ bỏ do sự bùng nổ của SARS. Hệ quả là nhiều nhà sản xuất hàng tiêu dùng như đồ điện tử, đồ điện và đồ gia dụng đã phải cắt giảm sản xuất trong thời gian này khiến cho nhu cầu về cáctông hòm hộp giảm sút.
Giấy bao gói cũng bị ảnh hưởng. Mặc dù sản phẩm này không bị ảnh hưởng mạnh mẽ như cáctông hòm hộp sau khi nhiều hội chợ bị huỷ bỏ nhưng nhiều hợp đồng đã không được ký kết. Tuy nhiên, trong thời gian qua mức độ tiêu dùng sản phẩm dược tăng mạnh nên đã bù đắp được phần nào tổn thất trên. Giấy bao gói hiện vẫn đang là vật liệu bao gói chủ yếu của sản phẩm dược châu Á.
Giấy in báo giảm sút. Tỷ lệ thu thập và quay vòng của giấy báo cũ và nhu cầu tiêu thụ giấy in báo vẫn ở mức thấp. Các nhà sản xuất và buôn bán giấy in báo trong khu vực cho rằng dịch SARS không những không thúc đẩy tiêu thụ mà dường như còn là một yếu tố làm giảm sức tiêu thụ. Hệ quả là hoạt động kinh tế ngừng trệ, quảng cáo giảm sút và các báo xuất bản đều cắt giảm trang in.
Giấy in từ bột hoá cũng trì trệ. Trong thời gian dịch SARS hoành hành, một số Chính phủ trong khu vực đã tung ra những chiến dịch quảng cáo sâu rộng nhằm giáo dục ý thức cho dân chúng về dịch bệnh SARS. Chiến dịch này đã tiêu thụ hàng triệu bản tin nhanh và các tờ rơi. Động thái này chỉ diễn ra ở những nơi đang có ổ dịch bùng phát, thúc đẩy tiêu thụ giấy in từ bột hoá nhưng cũng không bù đắp được cho sự trì trệ, giảm sút của thị trường các nước khác.
Tuy vậy, trong Hội nghị bột giấy và giấy Đông Nam Á (FAPPI) lần thứ 11 tổ chức tại Hà Nội vào ngày 26/9/2002, ASEAN vẫn được đánh giá là khu vực có mức tiêu thụ các sản phẩm giấy rất lớn, cao gấp 3 lần mức bình quân của thế giới.
Trong khu vực châu Á, hiện nay Trung Quốc và Nhật Bản là nước có sản lượng giấy đứng thứ hai trên thế giới. Sự phát triển của từng quốc gia này đều có những ảnh hưởng nhất định đối với ngành giấy khu vực và thế giới. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu năng lực và thực tế sản xuất và tiêu thụ của ngành giấy một số nước trong khu vực.
Nhật Bản
Đối với Nhật Bản, đến tháng 6-2002 dấu hiệu phục hồi cũng hết sức chậm và trong khoảng tháng 9-2002, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Nhật Bản ở mức âm 0,9%, kéo theo nhu cầu tiêu thụ giấy xuống mức âm 2,4%. Giá thị trường giấy cũng xuống thấp gây bất lợi cho nhà sản xuất, đặc biệt là giấy bao bì. riêng tình hình giấy in có khá hơn nhưng lợi nhuận vẫn đạt thấp. Tuy nhiên, việc cắt giảm sản lượng cũng phần nào làm tăng giá giấy từ 10 - 15%. Để ổn định nguồn nguyên liệu, các công ty Nhật Bản đang phát triển trồng nguyên liệu tại các nước như Ôtxtrâylia, Chi Lê, Trung Quốc, Nam Phi và Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản là nước có sản lượng giấy cao thứ hai trên thế giới, đạt 30,7 triệu tấn giấy và 10,8 triệu tấn bột giấy năm 2001.
Ngành giấy Nhật Bản đã thành lập Hiệp hội giấy Nhật Bản bao gồm 44 thành viên, các thành viên hầu hết là các công ty lớn. Mỗi công ty này có hơn 400 công ty vừa và nhỏ trực thuộc. Nguồn thu nhập duy nhất cho hoạt động của Hiệp hội này là lệ phí của các hội viên, bình quân khoảng 1 tỷ Yên mỗi năm. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và đầu tư phát triển do từng doanh nghiệp tự tổ chức vì đây là các đơn vị rất lớn, có mục tiêu, mặt hàng và thị trường khác nhau. Việc tổ chức nghiên cứu riêng sẽ thuận lợi hơn cho mỗi đơn vị và đầu tư sát với mục tiêu, đặc điểm riêng và tránh được tình trạng lãng phí.
Đối với vấn đề môi trường, Nhật Bản đang hướng tới một "Kế hoạch hành động đầy thiện chí vì môi trường", tro