Bài viết trình bày cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc xây dựng nội dung đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm (TTSP) tiểu học theo mô hình năng lực bao gồm ba tầng: lĩnh vực, tiêu chí và chỉ báo cùng với thang định chất lượng 5 mức độ đạt: xuất sắc, tốt, khá, trung bình và không đạt. Mô hình này được xác lập từ tiến trình phân tích, tổng hợp và đánh giá các tài liệu đào tạo giáo viên (GV) tiểu học hiện hành trong nước cũng như mô hình đào tạo năng lực của các chương trình TTSP quốc tế.
25 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 1965 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu, đánh giá giáo sinh trong thực tập sư phạm tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ GIÁO SINH
TRONG THỰC TẬP SƯ PHẠM TIỂU HỌC
HOÀNG NHƯ LAN*
TÓM TẮT
Bài viết trình bày cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc xây dựng nội dung đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm (TTSP) tiểu học theo mô hình năng lực bao gồm ba tầng: lĩnh vực, tiêu chí và chỉ báo cùng với thang định chất lượng 5 mức độ đạt: xuất sắc, tốt, khá, trung bình và không đạt. Mô hình này được xác lập từ tiến trình phân tích, tổng hợp và đánh giá các tài liệu đào tạo giáo viên (GV) tiểu học hiện hành trong nước cũng như mô hình đào tạo năng lực của các chương trình TTSP quốc tế.
Cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc đánh giá giáo sinh tiểu học trong thực tập sư phạm theo cách tiếp cận năng lực
Cách tiếp cận năng lực trong đánh
giá giáo sinh thực tập sư phạm
Khi bối cảnh toàn cầu hóa đòi hỏi GV phải có khả năng hướng dẫn người học trong một thế giới kiến thức mở rộng vô cùng, giúp trẻ học cách học xử lí thông tin, giao tiếp và giải quyết vấn đề hiệu quả và có trách nhiệm trong nhiều tình huống phức hợp của cuộc sống, thì TTSP như một nguồn thực tiễn quan trọng giúp phát triển chuyên môn cho
giáo sinh không thể dừng ở quan niệm truyền thống. Nhiều tài liệu đã chỉ ra rằng cách tiếp cận truyền thống đối với TTSP nhấn mạnh nhiều vào kiến thức kĩ thuật (technical knowledge) vốn là một phần nhỏ trong kiến thức chuyên môn sư phạm và không đủ chuẩn bị cho GV thực hiện những vai trò chuyên môn của mình trong dạy học (Shulz, 2005) [19]. TTSP hiện nay có xu hướng tập trung vào phát triển kiến thức chuyên môn, ít chú trọng đến kiến thức và kĩ năng sống thiết yếu khác có tính ứng dụng cao. Sinh viên (SV) được tạo điều kiện tập trung rèn luyện năng lực dạy học, ít quan tâm đến
*TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
việc rèn luyện các năng lực giáo dục, năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm khác, đến kiến thức nội dung môn học, và năng lực giao tiếp sư phạm (Phạm Văn Luân, 2008) [8]. Kiểu kinh nghiệm đạt được từ TTSP này, theo Darling- Harmmond, có thể “xã hội hóa” giáo sinh vào tiến trình duy trì địa vị, thân thế hiện tại hơn là giúp phát triển cách tiếp cận truy tìm khám phá và phân tích phê phán trong đó dạy học được xem như là một nghề nghiệp được củng cố bởi việc học tập suốt đời. [7]
Trên thực tế, các nghiên cứu về đề tài TTSP đã có xu hướng tập trung vào tìm hiểu đánh giá thực trạng TTSP và thể hiện năng lực của giáo sinh thông qua các đợt thực tập. Chẳng hạn, báo cáo khoa học của Nguyễn Thị Thu Hằng và các tác giả khác (2009) đã đi sâu khảo sát, phân tích khá toàn diện thực trạng TTSP của SV sư phạm Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, từ thực trạng về năng lực giảng dạy và chủ nhiệm đến những thuận lợi, khó khăn và những thay đổi về thái độ mà SV đã trải qua trong quá trình TTSP. Với nghiên cứu Xác định tiêu chí đánh giá năng lực giáo dục cho SV sư phạm TTSP (tốt nghiệp)”, Nguyễn Thanh Bình, thuộc Viện Nghiên cứu Đại học Sư phạm Hà Nội (2012) đã xác định các tiêu chí đánh giá năng lực giáo dục của SV sư phạm trong quá trình TTSP, trên cơ sở đó đề xuất cách sử dụng để cải tiến đào tạo và đánh giá những năng lực giáo dục cần có của GV trong tương lai. [1]
Trên bình diện quốc tế, tiếp cận năng lực trong đánh giá giáo sinh thực
tập đã trở thành chiến lược tư tưởng được áp dụng phổ biến. Conway, Murphy, Rath; & Hall [12] và Malloch, Cairns & Evans [16] đã giới thiệu hai tài liệu nghiên cứu mang tính chất tổng quan, đa diện về công tác TTSP của nhiều nước trên thế giới hiện nay. Nội dung nổi bật liên quan đến đề tài nghiên cứu được tìm thấy từ hai công trình nghiên cứu đồ sộ mang tầm quốc tế này đó là tính chuẩn hóa và chuyên biệt hóa của nội dung, quy trình TTSP và chuẩn đánh giá kết quả TTSP của 22 trường đại học có khoa sư phạm đào tạo giáo viên. Diện mạo của nội dung và biểu mẫu đánh giá TTSP mang tính chuẩn hóa và chuyên biệt hóa này phản ánh lí thuyết về cách tiếp cận năng lực trong đào tạo giáo viên nói riêng và trong giáo dục đại học nói chung. Bên cạnh đó, quá trình phát triển các chương trình giáo dục và đào tạo giáo viên theo cách tiếp cận năng lực/dựa vào năng lực cũng được nhận ra trong nhiều bài viết, bài báo và sách chuyên khảo quốc tế.
Vì vậy, các chương trình đào tạo GV nói chung và TTSP nói riêng đã và đang được đòi hỏi như một quy luật tất yếu, là tập trung vào việc phát triển các năng lực cho giáo sinh nhằm giúp họ có thể dạy học một cách hiệu quả trong các lớp học ở thế kỉ XXI.
Nội dung đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm hiện hành
Trong bối cảnh đòi hỏi đánh giá nghề nghiệp sư phạm theo cách tiếp cận năng lực như trên thì công tác TTSP tại các trường sư phạm ở nước ta có vẻ vẫn còn đang dậm chân tại chỗ với cách nghĩ cũ. Hội thảo khoa học về công tác thực
tập tại các trường sư phạm của Viện Nghiên cứu Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM) năm 2008 đã cung cấp nhiều nhận định khái quát cùng với các phân tích lí giải cụ thể liên quan đến thực tế triển khai mảng hoạt động quan trọng này trong các trường có khoa đào tạo GV.
Theo hội thảo, quy trình tổ chức tập luyện trong TTSP nhìn chung “đa dạng”, song cũng có một điểm khá thống nhất giữa các trường, đó là chủ nghĩa kinh nghiệm và sự cắt xén tùy tiện về nội dung, quy trình thao tác, về tiêu chí đánh giá (Trần Anh Tuấn, 2008) [8]. Việc đánh giá không dựa trên những tiêu chí rõ ràng, thống nhất mà chủ yếu dựa vào cảm tính của mỗi GV hướng dẫn (Võ Văn Chương, 2008) [8]. Lâu nay, các trường sư phạm đào tạo nghiệp vụ sư phạm nhưng chưa có được những quy chuẩn thống nhất (Đoàn Trọng Thiều, 2008) [8]. Các Quy chế TTSP theo tín chỉ hiện nay của các trường chủ yếu vẫn chỉ thêm một số điều chỉnh cụ thể nội dung, quy trình thời kì trước đây (Trần Anh Tuấn, 2008) [8]. Việc vận dụng Quy chế 36 của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào công tác thực hành, TTSP còn đang lúng túng trong việc xác định mục tiêu cụ thể cho từng hệ. Nhiều nội dung TTSP chưa thể cụ thể hóa được, có nội dung phù hợp cho hệ này lại chưa đáp ứng được với hệ đào tạo khác (Lê Nguyên Hùng, 2008) [8]. Vì vậy, đánh giá TTSP nhìn chung thiếu sự công bằng (Võ Văn Chương, 2008) [8], khác nhau trong đánh giá điểm TTSP đối với SV của GV hướng dẫn thực tập ở trường phổ thông và mầm non
(Đoàn Trọng Thiều, 2008) [8]. Tỉ lệ SV xếp loại TTSP “Giỏi” đến 70-80% theo hướng tỉ lệ nghịch với chất lượng tay nghề thực của họ (Trần Anh Tuấn, 2008) [8].
Khái quát hơn, Kiều Thế Hưng đã nhận định, trong nhiều thập kỉ qua, dường như không có tài liệu chính thống về TTSP với tư cách là tài liệu chuyên môn, khoa học mà chỉ mới dừng ở chỗ là tài liệu hướng dẫn, quy chế và tổ chức quản lí TTSP về mặt hành chính [8]. So sánh nhanh các tài liệu TTSP của khoảng mười trường đại học có khoa sư phạm trên thế giới với các bộ tài liệu hướng dẫn/hoặc quy chế TTSP của các trường đại học sư phạm ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể thấy nhận định của Kiều Thế Hưng đáng phải xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng để có thể đi đến việc tạo nên diện mạo thật sự khoa học cho các tài liệu về đánh giá TTSP của các trường sư phạm nước ta.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng 5 bảng hỏi ý kiến về 5 phiếu đánh giá TTSP hiện hành của Trường ĐHSP TPHCM từ các đối tác liên quan trực tiếp đến công tác TTSP (106 giáo sinh (GSTH) Khoa Giáo dục tiểu học vừa hoàn thành đợt TTSP kì 2/2013; 126 GV tiểu học nhiều năm tham gia hướng dẫn TTSP (GVHD), 26 giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học (GVKTH) thuộc ĐHSP HN với 16 chuyên gia (CG), những người đang làm việc trong lĩnh vực đánh giá giáo dục ở trường đại học và các viện nghiên cứu). Kết quả khảo sát đã cho thấy một tình huống khá phức tạp trong nhận thức về
các phiếu đánh giá trên từ góc nhìn tiếp cận năng lực. Xét trung bình chung của tổng các tỉ lệ của các ý kiến chi tiết, chúng tôi nhận thấy: trong lúc hơn 95% GVHD, hơn 80% GVKTH và hơn 65% GSTH “đồng ý và rất đồng ý” rằng các phiếu đánh giá có vẻ như đã tiếp cận được với cách tiếp năng lực thì chỉ có gần 17% CG có nhận định như thế. Cụ thể hơn, nhận định của đa số CG trong khảo sát là hầu hết các phiếu đánh giá TTSP hiện hành trong Quy chế hướng dẫn TTSP (Tìm hiểu thực tế giáo dục; Thực tập giáo dục - Đánh giá tiết dạy; Thực tập giảng dạy và Kết quả TTSP) đều liệt kê những tiêu chí đánh giá dựa trên quan điểm dạy học tập trung vào nội dung hoạt động mà không phải là dạy học tập trung vào phát triển năng lực.
Điều đáng lưu ý là ý kiến của các đối tượng tham gia khảo sát trái chiều nhau ở một nội dung có thể nhìn thấy trực tiếp trên các biểu mẫu đánh giá TTSP hiện nay và được đặt ra xuyên suốt ở 5 bảng hỏi. Nội dung đó là “Anh chị thấy rằng có thang đo gồm 4 hay 5 mức độ cùng với phần mô tả các biểu hiện của mỗi mức độ trên thang đo ấy trong mỗi Phiếu đánh giá.”. Rõ ràng, trong 5 phiếu đánh giá TTSP hiện hành không hề có thang đo và mô tả biểu hiện của các mức độ trên thang đo. Thế nhưng có đến hơn 95 % GVHD và hơn 60% GVKTH đồng ý và rất đồng ý là có thang đo ấy. Trong lúc đó, chỉ khoảng 30% GSTH đồng ý, và đặc biệt, đại đa số (hơn 95%) CG tham gia khảo sát rất không đồng ý tình trạng có thang đo này trong các Phiếu đánh giá TTSP hiện hành. Kết quả này chỉ ra một
thực tế rằng có vẻ như những người trực tiếp đánh giá kết quả TTSP của GSTH có nhận thức và hiểu biết khá mơ hồ về đánh giá giáo dục. Trong lúc đó, người được đánh giá là GSTH dường như thể hiện hiểu biết rõ hơn, chính xác hơn về đánh giá. Nói cách khác, kết quả này cho thấy việc xem xét và xác định chất lượng của các nội dung và biểu mẫu đánh giá cần phải được thực hiện thận trọng và khoa học bởi những người am hiểu về khoa học đánh giá và giáo dục.
Tóm lại, nội dung đánh giá kết quả TTSP đã được nhiều bài viết, bài tham luận hội thảo quốc gia đưa ra bàn bạc như một vấn đề cấp bách cần quan tâm giải quyết để có được những tài liệu hướng dẫn TTSP mang tính khoa học nhiều hơn, tính chuyên môn cao hơn. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu sâu và phát triển tài liệu cho vấn đề này. Đặc biệt, hướng nghiên cứu nội dung TTSP và biểu mẫu đánh giá dành riêng cho các khoa đào tạo đặc thù (Nguyễn Thị Hải Phượng 2011) [7] trong đó có khoa sư phạm tiểu học lại càng chưa được quan tâm, mặc dù ai cũng nhận ra rằng Đào tạo GV tiểu học cần chú trọng những kĩ năng nghề nghiệp dạy học đặc thù ở tiểu học (Hà Văn Khải 2011) [6].
Xây dựng nội dung và biểu mẫu đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm tiểu học
Tiến trình lược khảo lịch sử vấn đề nghiên cứu từ lí thuyết và thực tiễn vừa trình bày trên cho phép chúng tôi đi đến khẳng định sự hiện hữu có tính cấp thiết về nhu cầu xây dựng văn bản mô tả nội dung đánh giá TTSP cùng các biểu mẫu
đánh giá đi kèm theo cách tiếp cận năng lực, phù hợp với đặc thù của khoa đào tạo GV tiểu học. Nội dung và biểu mẫu đánh giá này hướng đến việc góp phần nâng cao chất lượng của quá trình đào tạo GV tiểu học theo hướng thực hiện 1 trong 14 Chương trình mục tiêu quốc gia của chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020 là “Tăng cường năng lực giáo dục nghề nghiệp”, từ đó, nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo GV tiểu học, làm cho chương trình này có thể bước đầu tiếp cận được với chất lượng đào tạo GV của khu vực và quốc tế. [3]
Nội dung và biểu mẫu đánh giá năng lực giáo sinh TTSP tiểu học được xác lập từ tiến trình phân tích, tổng hợp và đánh giá các tài liệu quan trọng về công tác đào tạo GV tiểu học hiện hành trong nước như Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học, Chuẩn đầu ra trình độ đại học khối ngành sư phạm đào tạo GV tiểu học, Quy chế TTSP của trường ĐHSP ban hành năm 2011 kết hợp với việc tìm hiểu, vận dụng các khái niệm chủ chốt như quan niệm về năng lực GV và mô hình đào tạo năng lực của các chương trình TTSP quốc tế.
Quan niệm về năng lực giáo viên
Về mặt từ nguyên, năng lực là khả năng đáp ứng thích hợp và đầy đủ mọi yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động. Từ góc nhìn tâm lí học, năng lực được xác định cụ thể hơn như một tập hợp các tính chất hay phẩm chất cá nhân của tâm lí cá nhân đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện một dạng hoạt động nhất định (Vũ Dũng, 2000) [19]. Hoặc năng lực là tổng hợp những
thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy. Ba loại thuộc tính của năng lực: thuộc tính cơ sở, thuộc tính chủ đạo, thuộc tính hỗ trợ. Hai kiểu năng lực là năng lực chung và năng lực riêng (Bùi Văn Huệ, 1996) [5].
Trên bình diện giáo dục phổ thông, năng lực được hiểu là tiến trình tích hợp các kĩ năng tác động một cách tự nhiên lên các nội dung trong một loại tình huống cho trước để giải quyết những vấn đề do những tình huống này đặt ra. Năng lực có tính tổng hợp, tích hợp. Có các loại năng lực: năng lực bộ môn, năng lực liên môn, năng lực xuyên môn. Năng lực xét trên phạm vi giáo dục nghề nghiệp là tập hợp những kĩ năng, thái độ - phẩm chất hay giá trị và kiến thức được sử dụng một cách hiệu quả để thực hiện những mục đích cụ thể trong những lĩnh vực nghề nghiệp chuyên biệt (Barnett, 1992). [11]
Trên cơ sở các định nghĩa trên về năng lực, chúng tôi xác định năng lực nghề nghiệp của GV là tổ hợp những kĩ năng, kiến thức và phẩm chất cá nhân tương ứng với những đòi hỏi của một lĩnh vực hoạt động nào đó của công việc dạy học. Năng lực này bao hàm “tài – đức”, có tính tổng hợp và tích hợp, tính thích dụng và dễ chuyển di trong những tình huống cụ thể. Các thành tố kiến thức, kĩ năng và phẩm chất quan hệ biện chứng (có thể chuyển hóa lẫn nhau). Năng lực nghề nghiệp này được định hình theo hướng phân biệt xu hướng giáo dục hàn
lâm và xu hướng thực tiễn nghề nghiệp kết hợp với cách tiếp cận nhấn mạnh phát triển năng lực nhận thức chung (Barnett,
1992) [11] được phản ánh trong bảng dưới đây:
Chuyên biệt
Chung
(Trong nhà trường)
Giáo dục
Những năng lực chuyên ngành
Những năng lực trí tuệ
chung
(Ngoài nhà trường)
Nghề nghiệp
Những kĩ năng nghề
nghiệp (professional skills)
Những khả năng cá nhân có thể chuyển di (transferable personal abilities)
Mỗi năng lực thành phần trong năng lực giáo sinh TTSP được phân tích dựa trên tháp phân loại 4 cấp độ thể hiện năng lực của Miller (1990) [17] như sau:
Cấu trúc nội dung đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm tiểu học
Theo Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học - Mục tiêu của Chương trình đào tạo giáo
viên tiểu học và Quy chế hướng dẫn thực tập sư phạm
Xem xét các văn bản pháp quy hiện hành liên quan trực tiếp đến việc đào tạo và đánh giá GV, chúng tôi nhận thấy cấu trúc nội dung đánh giá trong Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học và Mục tiêu của Chương trình đào tạo GV tiểu học đồng nhất với nhau. Cụ thể cả hai văn bản này đều đề cập ba lĩnh vực: (1) Phẩm chất; (2) Kiến thức; và (3) Kĩ năng sư phạm.
Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học
Mục tiêu đào tạo
của CTĐT GV tiểu học
Quy chế-hướng dẫn TTSP
1. Phẩm chất chính trị, lối
1. Phẩm chất
1. Tìm hiểu giáo dục
sống đạo đức
2. Kiến thức
2. Chủ nhiệm
2. Kiến thức
3. Kĩ năng sư phạm
3. Giảng dạy
3. Kĩ năng sư phạm
Trong khi đó, không theo cấu trúc của hai văn bản trên, hầu hết nội dung của các phiếu đánh giá trong Quy chế hướng dẫn TTSP hiện hành của các trường sư phạm đều liệt kê những tiêu chí đánh giá dựa trên quan điểm tập trung vào nội dung hoạt động trong đợt TTSP (Tìm hiểu thực tế giáo dục; Chủ nhiệm; và Dạy học) mà chưa phải là tập trung vào đánh giá kiến thức, kĩ năng sư phạm, phẩm chất đạo đức, càng không tập trung vào đánh giá năng lực. [2], [9]
Theo mô hình năng lực giáo viên trong các văn bản chương trình đào tạo sư phạm quốc tế
Trong phạm vi xem xét tư liệu của nghiên cứu này, hầu hết các chương trình đào tạo GV trên thế giới đều phản ánh cách tiếp cận năng lực. Có thể điểm qua bốn mô hình năng lực GV nổi bật. Một là mô hình cấu trúc năng lực GV của chương trình đào tạo GV tại 9 quốc gia thuộc châu Âu, châu Mĩ và Úc đã được Conway; Murphy; Rath; & Hall (2009) khái quát. Mô hình này bao gồm ba lĩnh vực:
Kiến thức/ Hiểu biết chuyên môn;
Năng lực thực hành chuyên môn bao gồm Năng lực chuyên ngành (cơ bản); Năng lực chung (cơ sở) như kĩ năng tư duy, độc lập giải quyết vấn đề, làm việc hợp tác, giao tiếp; và Năng lực hỗ trợ bao gồm năng lực công nghệ, ngoại ngữ, mĩ thuật;
Phẩm chất - Giá trị - Các mối quan hệ và Tinh thần tận tụy cá nhân đối với chuyên môn. [12]
Theo mô hình này, năng lực nghề nghiệp GV là một tổ hợp ba năng lực
chung, chuyên ngành và hỗ trợ. Mỗi lĩnh vực năng lực được phân thành hai hướng: tổng quát và chuyên biệt. Chẳng hạn kiến thức chuyên môn/ sư phạm tổng quát và kiến thức chuyên môn/ sư phạm chuyên biệt (toán tiểu học, tiếng Việt tiểu học, tâm lí HS tiểu học); thực hành chuyên môn sư phạm tổng quát và chuyên biệt. Hai lĩnh vực kiến thức và giá trị được đưa riêng biệt với những nội dung cụ thể, hiện đại, phản ánh những đòi hỏi của kỉ nguyên mới đối với GV với tư cách là CG [12].
Hai là, cách phân loại các loại năng lực GV của Tổ chức Australian Institute for Teaching and School Leadership (2011) [10] và Richards (2011) [18]. Mô hình năng lực mà hai hai tác giả này đề xuất là một cấu trúc bao gồm 3 lĩnh vực:
Kiến thức chuyên môn; (2) Thực hành chuyên môn; và (3) Tham gia chuyên môn. Năng lực giảng dạy, năng lực giáo dục và các phẩm chất giá trị chuyên môn được thể hiện và mô tả một cách phức hợp, tinh tế trong hai lĩnh vực Thực hành chuyên môn và Tham gia chuyên môn.
Thứ ba, theo quan điểm tổng thể (holistic view) kết hợp giữa xu thế giáo dục hàn lâm với giáo dục nghề nghiệp của Barnett (1992) [11], Irina Suciu1 and Mâţă (2011) [15] đã phác thảo mô hình 2 loại năng lực sư phạm: Năng lực sư phạm tổng quát (general pedagogial competence) và Năng lực sư phạm chuyên biệt (special pedagogical competence). Năng lực sư phạm tổng quát là một tập hợp của nhiều năng lực như tổ chức, lập kế hoạch, giao tiếp, hợp tác, phản biện và tự điều khiển, học tập
suốt đời, thực hiện ý tưởng giáo dục và công nghệ mới, diễn đạt, phát triển các môi trường học tập tích cực và sáng kiến, khích lệ động viên và hỗ trợ học sinh, năng lực văn hóa xã hội; năng lực phương pháp luận (methodological competences) và năng lực đánh giá. Năng lực sư phạm chuyên biệt bao gồm kiến thức chuyên môn, năng lực dạy học các môn học chuyên biệt, năng lực giáo dục cấp tiểu học, cấp trung học...
Thứ tư, chương trình đào tạo của một số quốc gia như Bộ Giáo dục - Đào tạo NewZealand, Germany (Haigh, & Tuck 2000) cũng theo cách mô tả các năng lực song không phân định thành các lĩnh vực lớn như 4 mô hình trên. Ở đây, mô hình năng lực đơn giản được liệt kê thành chuỗi các năng lực cụ thể vừa mang tính chất tổng quát vừa mang tính chất chuyên biệt. [14]
Tóm lại, các mô hình đào tạo GV trên bình diện quốc tế phản ánh rõ nét cách tiếp cận năng lực trong đánh giá GV cũng như đánh giá giáo sinh.
Mô hình năng lực được áp dụng trong nghiên cứu xây dựng nội dung và biểu mẫu đánh giá giáo sinh thưc tập sư
phạm tiểu học
Như đã xác định, năng lực nghề nghiệp của GV là tổ hợp thống nhất của những kĩ năng, kiến thức và phẩm chất cá nhân tương ứng với những đòi hỏi của một lĩnh vực hoạt động nào đó của công việc dạy học. Kế thừa và vận dụng tổng hợp các quan điểm tiếp cận năng lực và mô hình năng lực GV được thể hiện trong nguồn văn bản pháp quy trong nước và nguồn tư liệu về Chuẩn năng lực GV của các chương trình đào tạo sư phạm trên thế giới, chúng tôi đã phác thảo mô hình năng lực giáo sinh làm cơ sở cho việc biên soạn nội dung và biểu mẫu đánh giá giáo sinh TTSP tiểu học. Mô hình bao gồm 4 lĩnh vực sau:
Thái độ đối với công tác TTSP;
Kiến thức chuyên môn;
Năng lực thực hành chuyên môn;
Giá trị - phẩm chất chuyên môn.
Mỗi lĩnh vực trên bao gồm một tập hợp các tiêu chí. Ở từng tiêu chí, một tập hợp các chỉ báo thể hiện tiêu chí ấy được mô tả cụ thể. Nói vắn tắt, chúng tôi sử dụng phương pháp 3 tầng để mô tả sự thể hiện năng lực của giáo sinh trong TTSP như sơ đồ dưới đây:
Dưới đây là bảng trình bày mô hình bốn lĩnh vực với tập hợp các tiêu chí cho mỗi lĩnh vực:
Kiến thức/hiểu biết chuyên môn
Năng lực thực hành chuyên môn
Giá trị-phẩm chất CM
Thái độ tham gia TTSP
Kiến thức ngữ cảnh dạy học-giáo dục (Contextual knowledge)
Năng lực sư phạm
Năng lực giáo dục
Học tập liên tục-suốt đời
Thái độ trong chấp hành nộ