Lịch sử phát triển của phụ nữ Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển
của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ
của dân tộc ta, phụ nữ có mặt trên khắp các mặt trận, ở tiền tuyến cũng nhƣ
hậu phƣơng. Thời kỳ chống Mỹ cứu nƣớc đã xuất hiện những ngƣời phụ nữ
Việt Nam anh hùng, anh hùng trong sản xuất, anh hùng trong chiến đấu.
Trong thời đại công nghiệp hoá và hiện đại hóa phụ nữ Việt Nam tham gia
đông đảo vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hoá, chính trị, kinh tế, xã
hội và ngày càng thể hiện đƣợc vị thế của giới mình trong sự bình đẳng với
nam giới.
Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, phụ nữ là lực lƣợng lao động to
lớn làm việc trong tất cả các ngành, các lĩnh vực. Phụ nữ Việt nam đã thích
ứng nhanh với cơ chế mới, chủ động tiếp cận ngành nghề mới, bồi dƣỡng kỹ
năng lao động, kiến thức, năng lực quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Số cán bộ công chức nữ tham gia quản lý nhà nƣớc trong hệ thống chính
quyền các cấp hiện nay nhiều hơn so với trƣớc: Một Phó chủ tịch nƣớc, ba bộ
trƣởng, 26 thứ trƣởng và tƣơng đƣơng, 2 chủ tịch uỷ ban nhân dân, 22 phó
chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh.
16 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu phân tích vai trõ của phụ nữ Việt Nam trong một số hoạt động kinh tế xã hội qua số liệu thống kê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
308
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
SỐ: 07-CS-2005
NGHIÊN CỨU PHÂN TÍCH VAI TRÕ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRONG MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI QUA SỐ LIỆU
THỐNG KÊ
1. Cấp đề tài : Cơ sở
2. Thời gian nghiên cứu : Năm 2005
3. Đơn vị chủ trì : Viện Khoa học Thống kê
4. Đơn vị quản lý : Viện Khoa học Thống kê
5. Chủ nhiệm đề tài : CN. Nguyễn Thị Thái Hà
6. Những ngƣời phối hợp nghiên cứu:
CN. Vũ Thị Mai
CN. Phan Thị Ngọc Trâm
CN. Trần Thị Thanh Hƣơng
309
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Lịch sử phát triển của phụ nữ Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển
của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ
của dân tộc ta, phụ nữ có mặt trên khắp các mặt trận, ở tiền tuyến cũng nhƣ
hậu phƣơng. Thời kỳ chống Mỹ cứu nƣớc đã xuất hiện những ngƣời phụ nữ
Việt Nam anh hùng, anh hùng trong sản xuất, anh hùng trong chiến đấu.
Trong thời đại công nghiệp hoá và hiện đại hóa phụ nữ Việt Nam tham gia
đông đảo vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hoá, chính trị, kinh tế, xã
hội và ngày càng thể hiện đƣợc vị thế của giới mình trong sự bình đẳng với
nam giới.
Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, phụ nữ là lực lƣợng lao động to
lớn làm việc trong tất cả các ngành, các lĩnh vực. Phụ nữ Việt nam đã thích
ứng nhanh với cơ chế mới, chủ động tiếp cận ngành nghề mới, bồi dƣỡng kỹ
năng lao động, kiến thức, năng lực quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Số cán bộ công chức nữ tham gia quản lý nhà nƣớc trong hệ thống chính
quyền các cấp hiện nay nhiều hơn so với trƣớc: Một Phó chủ tịch nƣớc, ba bộ
trƣởng, 26 thứ trƣởng và tƣơng đƣơng, 2 chủ tịch uỷ ban nhân dân, 22 phó
chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh.
Theo kỷ yếu Hội nghị đánh giá giữa kỳ thực hiện Kế hoạch hành động
vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005. Trong 17 bộ/ngành là thành
viên của Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ thì có 4 bộ/ ngành có cán
bộ nữ là bộ trƣởng hoặc tƣơng đƣơng, 4 bộ/ngành có cán bộ nữ là thứ trƣởng
hoặc tƣơng đƣơng, còn 7 trong số 17 bộ/ngành chƣa có lãnh đạo chủ chốt.
Hai mƣơi bộ/ngành khác chỉ có 2 bộ trƣởng, 2 thứ trƣởng là nữ, 16 bộ/ngành
còn lại chƣa có cán bộ chủ chốt là nữ.
Tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội của nƣớc ta cao so với nhiều nƣớc trên thế
giới và đứng đầu trong khu vực châu Á. Số đại biểu nữ trong hội đồng nhân
310
dân các cấp qua các khoá đều tăng. Khóa 1999-2004, số nữ là đại biểu hội
đồng nhân dân cấp tỉnh chiếm 22,5%, cấp huyện chiếm 20,7%, cấp xã chiếm
17%
20
.
Tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp uỷ từ Trung ƣơng đến cơ sở chiếm khoảng
10-11%. Tỷ lệ nữ cán bộ công chức ở vị trí chủ chốt nhƣ bí thƣ, phó bí thƣ,
uỷ viên thƣờng vụ các cấp chỉ khoảng 3-8%.
Với tỷ lệ nữ chiếm 70% lực lƣợng lao động trong ngành, cán bộ nữ
ngành giáo dục đã dần khẳng định vị trí của mình trong xã hội.
Trong 5 năm qua tỷ lệ nữ có học hàm giáo sƣ tăng từ 3,5% lên 4,3%,
phó giáo sƣ tăng từ 5,9% lên 7,0%, tiến sĩ khoa học và tiến sĩ tăng từ 12,1%
lên 14,9%.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học phụ nữ Việt nam giữ vai trò quan
trọng có 6,3% cán bộ phụ trách là nữ, 10% đề tài nghiên cứu khoa học cấp
nhà nƣớc do phụ nữ làm chủ nhiệm21. Các cán bộ khoa học nữ đã có nhiều
công trình nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào
quá trình sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, góp phần làm thay đổi công nghệ sản xuất, chăm sóc sức khoẻ,
sử dụng năng lƣợng mới, bảo vệ môi trƣờng
Trong lĩnh vực văn hoá thể thao nhiều nữ vận động viên đã vƣợt khó
khăn, miệt mài luyện tập đạt nhiều huy chƣơng, lập nhiều kỷ lục tại các kỳ thi
đấu thể thao quốc gia và đã đạt thành tích cao trong các cuộc thi quốc tế.
Không chỉ giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội, trong thời đại ngày nay, phụ nữ còn có vai trò quan trọng là ngƣời duy trì
và phát triển những giá trị văn hoá gia đình, giữ gìn bản sắc dân tộc, giữ vai
trò chủ yếu trong tổ chức cuộc sống gia đình, chăm sóc, nuôi dạy con.
Chính vì vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam mà trong nhiều năm
qua, Đảng và Nhà đã xây dựng những chiến lƣợc, chính sách tạo điều kiện
cho phụ nữ Việt Nam phát huy đƣợc vai trò và khả năng của mình.
20
Nguồn: Báo cáo vai trò phụ nữ tham gia quản lý nhà nƣớc ngày 2 tháng 3 năm 2004
21
Bài phát biểu của Bà Hà Thị Khiết: “Vai trò của phụ nữ Việt Nam thế kỷ 21”.
311
II. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA VÌ SỰ TIẾN BỘ
CỦA PHỤ NỮ
Ngày 21 tháng 1 năm 2002 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 19/2002/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lƣợc hành động quốc gia vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của
phụ nữ Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành hữu quan xây dựng Kế
hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2005 với mục tiêu tổng
quát là: ổn định và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. Tạo
mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò
của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá, chính trị, xã hội”.
Theo Báo cáo quốc gia lần thứ 5 và 6 về tình hình thực hiện công ƣớc
Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ thì đã
có 40/40 bộ/ngành ở trung ƣơng và 64/64 tỉnh thành phố trực thuộc trung
ƣơng phê duyệt và triển khai thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia vì sự
tiến bộ của phụ nữ đến năm 2005 của Ngành hoặc địa phƣơng mình.
Chƣơng trình hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ gồm có 5
mục tiêu22, cụ thể là:
- Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực việc làm;
- Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo;
- Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức
khoẻ;
- Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của phụ nữ trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để tăng số phụ nữ đƣợc giới thiệu và bầu tham gia
lãnh đạo các cấp, các ngành;
- Tăng cƣờng năng lực hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Trong từng mục tiêu đều có các chỉ tiêu và các biện pháp thực hiện cụ
thể. Trong phần nội dung đề tài có tóm tắt kết quả thực hiện các mục tiêu
Chƣơng trình hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ .
22
Các mục tiêu cụ thể xem phần Phụ lục Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu.
312
Kết quả đánh giá thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ đƣợc tổng hợp trên cơ sở báo cáo của các bộ/ban/ngành và các
đoàn thể tổ chức chính trị xã hội mà nền tảng của nó là số liệu tổng kết các
chƣơng trình hành động và số liệu thống kê đƣợc phân loại theo giới. Vậy
thực trạng số liệu thống kê ở nƣớc ta ra sao.
PHẦN II
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA
PHÂN TÍCH SỐ LIỆU THỐNG KÊ
A. THỐNG KÊ GIỚI
Để tiện cho việc phân tích thực trạng số liệu thống kê giới ở nƣớc ta. Ở
đây chúng tôi sẽ điểm qua tình hình thống kê giới trên thế giới trên cơ sở Báo
cáo đánh giá về thống kê giới của Liên Hợp Quốc của các quốc gia và khu
vực cho thời kỳ 1975-2003.
I. Thống kê giới trên thế giới
Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện cƣơng lĩnh Bắc Kinh tổ chức từ
ngày 28/2-11/3/2005 tại NewYork, Mỹ đã xác định việc thiếu số liệu thống kê
đƣợc phân theo giới là một thách thức trong quá trình thực hiện các mục tiêu
bình đẳng giới.
Báo cáo đánh giá về thống kê giới 2005 của Liên Hợp Quốc thời kỳ
1975-2003 cho thấy số liệu thống kê đƣợc phân theo giới tập trung vào các
lĩnh vực: dân số, y tế, giáo dục và việc làm. Báo cáo cũng có đề cập đến về
tình hình thống kê hiện nay liên quan đến các lĩnh vực mới hơn nhƣ tình
trạng bạo lực chống lại phụ nữ, nghèo đói, ra quyết định và quyền con ngƣời.
Phạm vi thống kê giới của chính phủ tập trung giải quyết các vấn đề liên
quan đến giới ở các quốc gia rất khác nhau. Báo cáo đánh giá sự tiến bộ, tìm
ra sự thiếu hụt về số liệu thống kê giới và lập kế hoạch để cải thiện việc thu
thập và công bố thống kê về giới cho mục tiêu hoạch định chính sách, lập kế
hoạch và đánh giá chƣơng trình.
Việc đánh giá về năng lực thống kê của các quốc gia về sản xuất các chỉ
tiêu của Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ phân đƣợc phân theo giới ở cấp
quốc gia, và cũng giúp cho việc hỗ trợ về kỹ thuật. Các chuyên gia thống kê
313
giới có thể sử dụng báo cáo để làm công cụ hỗ trợ tích cực cho việc hoàn
thiện thống kê giới23.
Số lƣợng các chỉ tiêu thống kê giới có sự thay đổi lớn theo các khu vực
địa lý khác nhau. Châu Âu - khu vực đƣợc đánh giá có nhiều chỉ tiêu thống
kê giới nhất và ngƣợc lại với châu Âu, châu Phi là khu vực hạn chế về số liệu
thống kê giới hơn cả.
Số liệu thống kê giới thƣờng chỉ đƣợc thu thập và báo cáo trên cơ sở
thống kê chính thức, các hình thức khác nhƣ giáo dục tƣ, các trƣờng học của
các tổ chức tôn giáo chƣa đƣợc quan tâm. Đây là tình trạng phổ biến đối
với các nƣớc và các khu vực chƣa phát triển.
Báo cáo về thống kê giới đánh giá mặt hạn chế của thống kê giới giữa
các khu vực và các nƣớc qua 3 nhân tố: Thứ nhất là không có năng lực thống
kê phù hợp; Thứ hai là thiếu thông tin cơ bản phân theo giới ; và thứ ba là
Thiếu các khái niệm và phƣơng pháp phù hợp. Báo cáo về thống kê giới đã
đƣa tra các chiến lƣợc và chƣơng trình hành động tập trung vào các hoạt
động:
Tăng cƣờng hệ thống thông tin thống kê quốc gia
Tập trung vào các thông tin chủ đạo về giới trong mọi lĩnh vực liên quan
đến sản xuất số liệu thống kê
Phát triển và hoàn thiện các khái niệm và phƣơng pháp thống kê giới ở
các quốc gia và khu vực .
Những thông tin trên chứng tỏ việc thiếu các thông tin, số liệu thống kê
giới là một tình trạng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các khu vực và các
nƣớc chậm phát triển. Các nƣớc và các khu vực chậm phát triển số liệu thống
kê giới rất hạn chế, không chỉ thiếu các chỉ tiêu thống kê giới chủ yếu mà còn
chƣa có những khái niệm và phƣơng pháp thống kê giới đúng và đầy đủ.
II. Thực trạng số liệu thống kê giới ở Việt Nam
Theo danh mục Hệ thống các chỉ số trong cơ sở dữ liệu VietInfo 4.0
(1990-2003) thì thiếu số liệu nhiều chỉ tiêu thống kê phân theo giới. Theo các
23
The World‟s Women 2005: Progress in Statistics (Pg vii, ix).
314
Mục tiêu phát triển của Việt Nam thì còn thiếu nhiều chỉ tiêu ví dụ nhƣ các
chỉ tiêu: Tỷ lệ phụ nữ là lãnh đạo trong các bộ, ngành, cơ quan trung ƣơng;
Tỷ lệ phụ nữ là chủ doanh nghiệp; và Tỷ lệ hộ gia đình đƣợc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất có cả tên vợ và tên chồng.
Trong báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của
Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ cho thấy còn một số
chỉ tiêu chƣa có số liệu.
Trong thực tế nhiều cuộc điều tra kinh tế xã hội do Tổng cục Thống kê
và các bộ/ngành khác thực hiện đã quan tâm đến việc thu thập thông tin theo
giới, tuy nhiên còn ở mức độ khác nhau. Đáng lƣu ý là việc khai thác tổng
hợp và xử lý thông tin dƣới góc độ giới chƣa đƣợc quan tâm, nên hiệu quả
phân tích số liệu giới còn hạn chế.
Nhƣ vậy có thể nhận định rằng hệ thống thông tin, chỉ tiêu thống kê về
giới ở nƣớc ta đã đƣợc quan tâm, tuy nhiên còn nhỏ lẻ và thiếu hệ thống.
Trong Báo cáo phát triển con ngƣời của Liên Hợp Quốc công bố năm
2005 thì chỉ số GEM - Chỉ số tổng hợp biểu hiện vai trò của phụ nữ trong đời
sống kinh tế và chính trị không có số liệu của Việt nam (do thiếu dữ liệu),
điều này cũng đã chứng tỏ phần nào số liệu thống kê giới của nƣớc ta chƣa có
khả năng phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh quốc tế.
Theo quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tƣớng
chính phủ thì trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia có 8 nhóm chỉ tiêu
thống kê liên quan đến thống kê giới, đó là: Các chỉ tiêu thống kê về Dân số;
Các chỉ tiêu thống kê về lao động việc làm; Các chỉ tiêu thống kê về Khoa
học công nghệ; Các chỉ tiêu thống kê về giáo dục đào tạo; Các chỉ tiêu thống
kê về y tế và chăm sóc sức khoẻ; Các chỉ tiêu thống kê về văn hoá, thông tin,
thể thao; Các chỉ tiêu thống kê về trật tự an toàn xã hội và tƣ pháp; Các chỉ
tiêu thống kê về tiến bộ phụ nữ.
Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Trọng Điều, Thứ trƣởng Bộ Nội
vụ thì để hoạch định chính sách cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng một
cách khoa học khách quan, cần sử dụng các nghiên cứu, đánh giá về giới dƣới
góc độ tâm lý, xã hội học cũng nhƣ các phân tích thấu đáo về các yêu cầu
315
chính trị-xã hội, các nhân tố thực tiễn tác động từ nhiều phía đến quá trình
phát triển của phụ nữ, có sự so sánh, cân bằng với nam giới trong các hoạt
động xã hội. Do vậy phải có những thông tin, số liệu thống kê về giới phù
hợp, chính xác, kịp thời. Ở đây vai trò của thống kê giới cần đƣợc quan tâm,
đặc biệt trong việc nâng cao nhận thức lồng ghép thống kê giới trong thống
kê của các bộ/ban/ngành.
B. PHÂN TÍCH VAI TRÕ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA SỐ LIỆU
THỐNG KÊ
I. Vai trò của phụ nữ qua số liệu thống kê về Lao động, việc làm
1. Về lao động
Về lực lƣợng lao động
Theo số liệu điều tra lao động việc làm của Bộ Lao động - Thƣơng binh
và Xã hội 1996-2003, cơ cấu lực lƣợng lao động chia theo giới tính của nƣớc
ta là xấp xỉ nhau. Riêng số liệu lao động nữ của khu vực thành thị năm 2003
thấp hơn nam khoảng 5% (47,47% so với 52,53%).
Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở nƣớc ta vẫn đƣợc duy trì ở mức
cao qua các năm. Năm 2003, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của nữ là
68,5% và nam là 75,8%. Sự chênh lệch về tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế
giữa nam và nữ trong thời kỳ 2000 - 2003 rất ít thay đổi, mức chênh lệch chỉ
khoảng trên dƣới 7%.
Nam giới thƣờng chiếm tỷ lệ cao hơn trong những lĩnh vực có thu nhập
và địa vị xã hội cao, trong khi đó nữ giới thƣờng tập trung ở những nghề có
tiền công thấp, tay nghề và kỹ năng lao động không đòi hỏi quá nhiều.
Về trình độ học vấn
Tỷ lệ không biết chữ chung cho cả hai giới đã giảm từ 5,72% năm 1996
xuống còn 4,24% năm 2003 (giảm 1,48%), với tỷ lệ không biết chữ của lực
lƣợng lao động nam giảm 1,1% và của nữ giảm 1,78%. Tỷ lệ tốt nghiệp cấp
III của lực lƣợng lao động nam tăng từ 15,55% năm 1996 tăng lên 19,93%
316
năm 2003, và các tỷ lệ tƣơng ứng của lực lƣợng lao động nữ là 12,05% và
16,75%.
Về trình độ chuyên môn
Năm 2003 tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn của lực lƣợng lao động
nam và nữ đều đã tăng lên so với năm 1996. Tỷ lệ lực lƣợng lao động nam có
chuyên môn kỹ thuật năm 1996 là 14,79%, năm 2003 tăng lên 24,90% (tăng
khoảng 10%) cao hơn tỷ lệ của lực lƣợng lao động nữ. Tỷ lệ tăng của lực
lƣợng lao động nữ có trình độ chuyên môn là khoảng 7% cho thời kỳ 1996-
2003 (từ 9,88% lên 17,41%).
2. Việc làm
Tình hình có việc làm
Năm 2003 số lao động nam có việc làm chiếm tỷ lệ lớn hơn so với nữ ở
cả khu vực thành thị và nông thôn. Mức chênh lệch về tỷ lệ việc làm giữa
nam và nữ ở thành thị (5,7%) lớn hơn so với ở nông thôn (1,4%). Năm 2003
tỷ lệ dân số nữ từ 15 tuổi trở lên có việc làm thƣờng xuyên có giảm khoảng
1% so với năm 2002.
Nghề nghiệp
Số liệu cho thấy có sự khác biệt rất rõ ràng về giới trong từng nhóm
nghề. Chỉ có 19% tỷ lệ lao động nữ tham gia lãnh đạo, các nghề đòi hỏi trình
độ tay nghề hay đào tạo bậc cao nữ giới cũng chiếm tỷ lệ 41,5%, chuyên
môn kỹ thuật bậc trung chiếm 58,5%. Nữ chiếm tỷ lệ cao nhất (68,7%) trong
nhóm nghề dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng.
Ngoài những ngành nghề truyền thống tập trung nhiều phụ nữ nhƣ y tế
(58%), giáo dục (69,8%), khách sạn nhà hàng (69,1%) thì một số ngành
nghề đƣợc coi là thế mạnh của nam giới cũng đã có tỷ lệ phụ nữ tham gia cao
nhƣ tài chính tín dụng (49%), công nghiệp chế biến (50,7%) và khoa học
công nghệ (46,7%).
Tình hình thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp nữ năm 1998 là 2,08% đến năm 2003 là 2,63%. Và
cũng dễ dàng nhận thấy có sự khác biệt về tỷ lệ thất nghiệp của nữ giữa 2 khu
317
vực thành thị và nông thôn, ở khu vực thành thị tỷ lệ thất nghiệp của nữ cao
hơn nhiều so với nông thôn (năm 2003 các mức tỷ lệ thất nghiệp nữ cho khu
vực thành thị và nông thôn tƣơng ứng là 6,93% và 1,31%).
II. Vai trò của phụ nữ qua số liệu thống kê về giáo dục, đào tạo
Tỷ lệ biết chữ
Mức độ chênh lệch về tỷ lệ biết chữ giữa nam và nữ không đáng kể ở
vùng Đồng bằng sông Hồng. Số liệu đã chứng tỏ những kết quả đáng tự hào
của nƣớc ta về giáo dục và bình đẳng giới trong giáo dục. Từ mức chênh lệch
tới 24,86% và 27,96% tƣơng ứng với khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên,
trong 8 năm mức chênh lệch đã giảm xuống chỉ còn 4,43% và 5,51%.
Tỷ lệ biết chữ của nƣớc ta tƣơng đối cao, đạt tỷ lệ 92,13% năm 2002.
Trong đó vùng Đồng Bằng Sông Hồng có tỷ lệ biết chữ lớn cao nhất ở cả
nam và nữ, với tỷ lệ tƣơng ứng là 98,33 % và 93,39%. Tây Bắc là khu vực
có tỷ lệ biết chữ thấp nhất ở cả nam và nữ, tƣơng ứng là 88,75 % và 71,32 %.
Khu vực thành thị có tỷ lệ biết chữ cao hơn và chênh lệch về giới thấp hơn so
với khu vực nông thôn. Ở tất cả các vùng và khu vực thì tỷ lệ biết chữ của
nam đều cao hơn so với nữ, tuy nhiên mức chênh lệch giữa nam và nữ tƣơng
đối thấp.
Tỷ lệ đi học
Năm học 2003-2004 tỷ lệ đi học là 102,6% ở nữ và 107,4% ở nam. Ở
bậc trung học phổ thông, tỷ lệ đi học đã giảm xuống rất nhiều so với bậc tiểu
học và bậc trung học cơ sở, năm học 2003-2004 chỉ còn 45,2% nữ và 45,7%
nam. Tuy nhiên so với những năm học trƣớc thì tỷ lệ đi học đã tăng lên và
khoảng chênh lệch về tỷ lệ này giữa nam và nữ ngày càng đƣợc thu hẹp.
Tỷ lệ em gái nhập học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học trong nhóm 20% hộ
nghèo nhất ở nƣớc ta chỉ đạt 83,8%, của em trai là 89,1%. Tỷ lệ này ở nhóm
20% hộ giàu nhất đạt tới 98,8% đối với trẻ em trai và 96,8% với trẻ em gái.
Nhƣ vậy sự chênh lệch về tỷ lệ nhập học đúng tuổi bậc tiểu học chênh lệch về
giới là 5,3% với các hộ gia đình nghèo và 2,0% với các hộ gia đình giàu.
Sinh viên cao đẳng đại học
318
Trong năm học 2003-2004 khối các trƣờng cao đẳng tỷ lệ nữ sinh viên
đã vƣợt tỷ lệ nam sinh viên, mức chênh lệch về tỷ lệ nam - nữ là âm (-
0,32%). Với sinh viên đại học, tỷ lệ nam sinh viên cao hơn nữ sinh viên, tuy
nhiên sự chênh lệch về giới giảm dần theo các năm học từ 15,92% năm học
2000-2001 xuống còn 11,0% năm học 2003-2004.
Bằng cấp cao nhất
Ở các bậc học tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp phổ thông cơ sở và tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp, nữ giới đạt tỷ lệ khá cao, tƣơng đƣơng với
nam giới. Tuy nhiên, ở bậc tốt nghiệp đại học và trên đại học thì nam chiếm
tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với nữ, ở bậc trên đại học tỷ lệ nam cao hơn gấp 3
lần so với nữ. Số liệu cũng chứng tỏ càng lên các cấp học cao thì tỷ lệ nữ
càng giảm.
Tỷ lệ giáo viên
Số liệu của Trung tâm thông tin quản lý giáo dục Bộ Giáo dục đào tạo,
trong khối giáo dục đào tạo đại học có 10680 nữ, chiếm 37,56% trong tổng số
28434 giảng viên đại học. Số lƣợng và tỷ lệ cán bộ giảng dạy trong các
trƣờng đại học đã tăng dần kể từ năm 1999 đến năm 2004, từ 34,0% lên
38,1%.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nƣớc ta đã đạt đƣợc những kết quả
nhất định về bình đẳng giới. Tuy nhiên vẫn còn có những khác biệt về giới ở
các vùng, miền, các cấp học cao.
III. Vai trò của phụ nữ qua số liệu thống kê về khoa học và công nghệ
Nữ giới thƣờng gặp nhiều trở ngại trong nghề nghiệp, điển hình là các
nhà tuyển dụng còn lƣỡng lự khi thuê phụ nữ làm việc nói chung và trong
nghiên cứu khoa học nói riêng vì ngại rằng họ sẽ nghỉ việc đẻ sinh con. Các
bậc phụ huynh thƣờng không khuyến khích con gái theo đuổi sự nghiệp mà
họ luôn cho rằng có sự phân biệt trong đối xử 24.
Số liệu thống kê đã chứng tỏ còn có sự chênh lệch đáng kể giữa nam và
nữ ở trình độ đào tạo tiến sỹ, đặc biệt ở trình độ tiến sỹ khoa học. Tỷ lệ nữ là
24
Báo Khoa học và phát triển số 43 (27/10-2/11/2005).
319
tiến sỹ và tiến sỹ khoa học chỉ chiếm tƣơng ứng là 14,97 % và 4,58 %. Và tỷ
lệ nữ giới đạt đƣợc các học hàm cũng rất thấp so với nam giới. Các nữ tiến sỹ
và tiến sỹ khoa học đƣợc phong tặng chức danh giáo sƣ chỉ ở mức 4,68% và
3,12% tƣơng ứng.
Ngành giáo dục là một t