Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468 - 1545). Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại nhà Mạc. Sau đó Nguyễn Kim còn kiếm được một người con của vua Lê Chiêu Tông lập lên ngôi để nối tiếp nhà Lê, là vua Lê Trang Tông. Nhờ công này, Nguyễn Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội. Nguyễn Kim sau bị người nhà Mạc dùng thuốc độc giết. Nguyễn Kim có hai người con trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều được phong chức Quận công, nhưng binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nắm quyền chỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi việc trong triều đình. Để giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho chính mình, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, về sau được Trịnh Kiểm giao quyền cai quản luôn cả Quảng Nam, tức là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558 để tránh xa Chúa Trịnh.
Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranh giới bằng cách xâm lấn đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù Nam cũ (tức là miền Nam Việt Nam bây giờ). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phục vua Lê và cũng chỉ xưng "Chúa" (Chúa Nguyễn). Nguyễn Hoàng (sau được tôn là Chúa Tiên) là người mở đầu cho việc xây dựng cơ nghiệp họ Nguyễn ở phương nam.
44 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7837 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhà nước và pháp luật của triều đại nhà Nguyễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN
Hiệu kỳ hoàng đế nhà Nguyễn từ 1802 đến 1885
Điều kiện hình thành.
Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468 - 1545). Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại nhà Mạc. Sau đó Nguyễn Kim còn kiếm được một người con của vua Lê Chiêu Tông lập lên ngôi để nối tiếp nhà Lê, là vua Lê Trang Tông. Nhờ công này, Nguyễn Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội. Nguyễn Kim sau bị người nhà Mạc dùng thuốc độc giết. Nguyễn Kim có hai người con trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều được phong chức Quận công, nhưng binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nắm quyền chỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi việc trong triều đình. Để giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho chính mình, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, về sau được Trịnh Kiểm giao quyền cai quản luôn cả Quảng Nam, tức là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558 để tránh xa Chúa Trịnh.
Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranh giới bằng cách xâm lấn đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù Nam cũ (tức là miền Nam Việt Nam bây giờ). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phục vua Lê và cũng chỉ xưng "Chúa" (Chúa Nguyễn). Nguyễn Hoàng (sau được tôn là Chúa Tiên) là người mở đầu cho việc xây dựng cơ nghiệp họ Nguyễn ở phương nam.
Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, hay Chúa Sãi, lên ngôi chúa năm 1613, là người đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc. Từ đó con cháu trong giòng họ này đều mang họ này. Sáu đời sau, Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi vào năm 1738, là người đầu tiên xưng "vương" vì Chúa Trịnh tại phương bắc cũng đã xưng vương – vua Lê chỉ còn hư vị. Nguyễn Phúc Khoát xưng mình là Vũ Vương.
Sau khi Vũ Vương chết, theo di chúc người nối ngôi phải là Nguyễn Phúc Luân nhưng một vị quan trong triều là Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi để dễ bề thao túng. Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi năm 1765, tức là Định Vương. Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên dân chúng nổi lên khởi nghĩa, trong số đó là anh em nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó, nhân dịp này chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan nhưng sau khi bắt được Trương Phúc Loan rồi họ tiếp tục đánh và chiếm được Phú Xuân năm 1775. Vì đó chúa Nguyễn phải vào Quảng Nam. Đến năm 1777, Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương cùng rất nhiều người và thuộc tướng của họ Nguyễn Phúc. Chỉ có một người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát.
Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm được Gia Định và đến năm 1780, ông xưng vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Ánh khiến ông trốn chạy rồi quay về nhiều lần. Đến năm 1790, Nguyễn Ánh chiếm được hẳn Gia Định.
Trong 24 năm liên tiếp sau đó, Nguyễn Ánh ra sức củng cố lại vùng Gia Định; tranh thủ những sự ủng hộ, nhất là về các vũ khí, của các nhà truyền giáo người Pháp mà tiêu biểu sự giúp đỡ của giám mục Pigneau de Béhaine để củng cố quân đội và tạo cho mình một thế đứng vững vàng. Cũng đồng thời lúc đó vua Quang Trung của Tây Sơn đột ngột qua đời, nhà Tây Sơn rơi vào cảnh "cốt nhục tương tàn", triều đình nhanh chóng suy yếu và mất lòng dân. Nguyễn Ánh ra sức tấn công và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn. Sau đó, ông lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, nhà Nguyễn thành lập.
Các triều đại nhà Nguyễn:
Các vua nhà Nguyễn (Tên - Năm Trị Vì - Niên Hiệu)
Nguyễn Phúc Ánh 1802-1819 Gia Long
Nguyễn Phúc Đảm 1820-1840 Minh Mạng
Nguyễn Phúc Miên Tông 1841-1847 Thiệu Trị
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1847-1883 Tự Đức
Nguyễn Phúc Ưng Ái 1883 Dục Đức
Nguyễn Phúc Hồng Dật 1883 Hiệp Hòa
Nguyễn Phúc Ưng Đăng 1883-1884 Kiến Phúc
Nguyễn Phúc Ưng Lịch 1884-1885 Hàm Nghi
Nguyễn Phúc Ưng Kỷ 1885-1889 Đồng Khánh
Nguyễn Phúc Bửu Lân 1889-1907 Thành Thái
Nguyễn Phúc Vĩnh San 1907-1916 Duy Tân
Nguyễn Phúc Bửu Đảo 1916-1925 Khải Định
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy 1926-1945 Bảo Đại
Vua Gia Long sinh năm 1762, mất năm 1820, là con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân, lên ngôi năm 1802, có 13 con trai và 18 con gái. Vua Gia Long cũng là người đặt tên nước là Việt Nam.
Vua Minh Mạng sinh năm 1791, mất năm 1841, là con trai thứ tư của vua Gia Long, lên ngôi năm 1820 (ngày 1 tháng giêng âm lịch) vì người anh cả là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh lúc đó đã chết (các anh thứ hai và thứ ba chết lúc còn nhỏ), có 78 con trai và 64 con gái. Vua Minh Mạng cũng là người đặt tên nước là Đại Nam.[140]
Vua Thiệu Trị sinh năm 1807, mất năm 1847, là con trai lớn của vua Minh Mạng, lên ngôi năm 1841 (ngày 1 tháng giêng âm lịch), có 29 con trai và 35 con gái.
Thế phả nhà Nguyễn
Vua Tự Đức sinh năm 1829, mất năm 1883, là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị, lên ngôi năm 1847, vì không có con nên nuôi 3 người cháu. Cả ba sau đều lên làm vua: Dục Đức, Đồng Khánh và Kiến Phúc.
Vua Dục Đức sinh năm 1852, mất năm 1883, là con trai trưởng (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 20 tháng 7 năm 1883 nhưng 3 ngày sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế rồi giết chết, có 11 con trai và 8 con gái. Dục Đức, vì ở trên ngôi có 3 ngày, không có thời giờ chọn niên hiệu; Dục Đức là tên của dinh thự của vị vua này. Miếu hiệu và thụy hiệu về sau mới được tôn xưng.
Vua Hiệp Hòa sinh năm 1847, mất năm 1883, là con trai thứ 29 của vua Thiệu Trị (tức là em của vua Tự Đức), lên ngôi ngày 30 tháng 7 năm 1883 nhưng 4 tháng sau bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết chết, không có con.
Vua Kiến Phúc sinh năm 1869, mất năm 1884, là con trai thứ ba (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883 nhưng 8 tháng sau thì bị bệnh rồi chết, mọi việc đều được lo bởi Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, không có con.
Vua Hàm Nghi sinh năm 1872, mất năm 1943, là cháu gọi vua Tự Đức là chú (có cùng cha với vua Đồng Khánh nhưng vua Đồng Khánh là con nuôi của vua Tự Đức), lên ngôi năm 1884 nhưng bị Pháp truất phế 1 năm sau đó vì mưu lược chống họ, có 1 con trai và 2 con gái. Sau khi bị truất phế vua Hàm Nghi tiếp tục việc chống Pháp nhưng bị bắt vào năm 1888 và bị Pháp đày sang Algérie.
Vua Đồng Khánh sinh năm 1864, mất năm 1889, là con trai thứ hai (con nuôi) của vua Tự Đức, lên ngôi năm 1885 nhưng sau 3 năm thì bị bệnh rồi chết, có 6 con trai và 3 con gái.
Vua Thành Thái sinh năm 1879, mất năm 1955, là con trai thứ bảy của vua Dục Đức (người làm vua chỉ trong 3 ngày), lên ngôi năm 1889 nhưng bị Pháp truất phế vào năm 1907 vì chống lại họ, có 16 con trai và nhiều con gái. Vào năm 1916 vua Thành Thái (cùng con là vua Duy Tân) bị Pháp đày sang đảo Réunion, nhưng được đón trở lại Việt Nam vào năm 1947.
Vua Duy Tân sinh năm 1899, mất năm 1945, là con trai thứ năm của vua Thành Thái, lên ngôi năm 1907 nhưng chỉ lo việc chống Pháp nên bị họ truất phế và đày sang đảo Réunion (cùng với cha là vua Thành Thái) vào năm 1916, có 3 con trai và 1 con gái.
Vua Khải Định sinh năm 1885, mất năm 1925, là con trai trưởng của vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1916 với ý định hòa hoãn với Pháp, chỉ có 1 con trai.
Vua Bảo Đại sinh năm 1913, mất năm 1997, là con trai độc nhất của vua Khải Định, lên ngôi năm 1926 trong khi đang du học tại Pháp nên về Việt Nam 6 năm sau đó, có 2 con trai và 3 con gái. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình hoàng đế Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam. Nhà sử học Trần Trọng Kim được bổ làm Nội các Tổng trưởng, giao nhiệm vụ thành lập nội các vào ngày 17 tháng 4 và đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30 tháng 8 năm 1945 và giữ chức "Cố vấn tối cao" cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, nhưng chẳng bao lâu lại từ chức đi sống tại các nước ngoài. Bảo Đại trở lại Việt Nam với chức vụ Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam vào năm 1948 nhưng lại bị mất quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý trong năm 1956.
I. NHÀ NƯỚC
Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương
Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong vương, đặt quan lại cho những người theo phò tá mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia Long, ông lại tiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính quyền mới.
Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như các triều đại trước đó. Đứng đầu nhà nước là vua, nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834 trở thành viện Cơ mật. Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia[1].
Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước, các bộ gồm: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ Công.[2] Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc tử giám phụ trách giáo dục, Thái y viện chịu trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang,... cùng với một số Ti và Cục khác.
Bộ Lại: chịu trách nhiệm về mặt tổ chức bộ máy nhà nước.
Bộ Hộ: chịu trách nhiệm về hộ khẩu, hộ tịch, ruộng đất, thuế khóa…
Bộ Lễ: chịu trách nhiệm về mặt nghi lễ, lễ tân, học hành, thi cử.
Bộ Binh: là cơ quan đặc trách mặt quân sự, quốc phòng.
Bộ Hình : đảm nhận việc thực thi pháp luật, hình án.
Bộ Công phụ trách việc tổ chức và quản lý các hoạt động trên lĩnh vực xây dựng, lao thông, thủ công nghiệp của nhà nước.
Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét. Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có quyền lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua và thường là vua phải nghe lời can ngăn của những người này[4].
Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại đia phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình thường quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh nhà. Phẩm phục của quan văn (trái) và quan võ (phải).
Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyền lợi, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp.
Tuy bộ máy không thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham nhũng vẫn là một trong những vấn đề lớn. Trong bộ luật triều Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắc đối với tội này.
Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc quản lý đất nước.
Tổ chức đơn vị hành chính: Dưới thời Gia Long các đơn vị hành chính được chia thành 3 khu vực trong có tên gọi khác nhau.
Khu trung ương đặt dưới sự quản lý trực tiếp của triều đình gồm 4 Dinh l à : Qu ảng Bình , Quảng Trị , Quảng Đức , Quang Nam v à 7 trấn là Binh Thuận, Bình Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Nghệ An, Thanh Hóa. Đất kinh kỳ quản ly trực tiếp 4 doanh
Từ Thanh Hóa trở ra Bắc gọi là Bắc thành gồm 11 trấn( 5 nội trấn là Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Kinh và 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái nguyên, Quảng Yên)
Từ Bình Định trở vào Nam gọi là Gia Định trấn (đến năm 1808 đổi gọi là Gia Định thành):Cai quản 5 trấn là Phiên An, Biên hòa, Vĩnh Thành, Vĩnh Tường, Hà Tiên.
Bắc thành và Gia Định thành là hai đơn vị hành chính địa phương lớn nhất trực thuộc trung ương, có bộ máy cai trị như một triều đình thu nhỏ.
Đứng đầu Bắc thành và Gia Định thành là một viên tổng trấn và một viên phó tổng trấn trông coi giúp việc. Các trấn có một viên trấn thủ hay lưu trấn đứng đầu. Giúp việc cho viên trấn thủ là cai bạ và ký lục. Dưới cac trấn là cac đơn vị phủ do tri phủ đứng đầu, huyện do tri phu cai quản, châu thì do chi châu phụ trách. Dưới huyện là cấp tổng có cai tổng đứng đầu, xã có lý trưởng và phó lý phụ trách.
Dưới thời Minh Mạng, tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến các địa phương chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh hơn theo ý đồ của nhà vua, nhằm tập trung mọi quyền lực cao nhất vào nhà nước trung ương mà trự tiếp là Hoàng Đế.
Thời gian đầu mới lên ngôi, Minh Mạng còn giữ nguyên tổ chức nhà nước thời Gia Long. Sau đó cùng với việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị hành chính địa phương trong cả nước, Minh Mạng đã thực hiện những cải cách trong việc tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước. Bộ máy nhà nước có trung ương gồm có : đứng đầu triều đình là nhà vua, nắm giữ mọi quyền hành. Giúp việc và làm tham mưu cho nhà vua có một số quan như sau:
Nội các: thời Gia Long gọi là Thị thư viện chuyên phụ trách công việc giấy tờ văn thư. Năm 1820, Minh Mạng đổi gọi là văn thư phòng. Năm 1928 đổi văn thư phòng thành Nội các. Nội các của nhà Nguyễn thực ra là phỏng theo quy chế Nội các thời Minh- Thanh( Trung Quốc) , nhưng có điểm khác là về mặt quyền hành của cơ quan này. Thời Minh- Thanh, Nội các là cơ quan có quyền lực lớn đứng trên các bộ. Phẩm hàm của các viên quan đứng đầu Nội các la chánh nhất phẩm, còn dưới triều Minh Mạng, các viên quan đứng đầu cơ quan này chỉ có làm tam phẩm, tứ phẩm. Cơ quan Nội các gồm có 4 tào (thưởng bảo, kí chú, đồ thư, biểu bạ)
Cơ mật viện: Năm 1834 đặt cơ mật viện, đây là cơ quan trọng yếu của nhà vua. Minh Mạng phỏng theo tổ chức khu mật viện của nhà Tống và quân cơ xứ của nhà Thanh. Đứng đầu cơ quan này gồm có 4 viên quan đại thần do vua lựa chọn từ các quan văn, võ có phẩm hàm từ tam phẩm trở lên.Viện cơ mật có nhiệm vụ giúp vua giả quyết các công việc “quân quốc trọng sự”, làm tư vấn cho nhà vua nắm chắc lục bộ và các địa phương trong toàn quốc. Viện cơ mật có 2 ban: Nam chương kinh phụ trách những việc có liên quan từ Quảng Bình trở vào Nam và các nước ngoài về phái nam Đèo Ngang trở vào và Bắc chương kinh phụ trách những công việc từ Hà Tĩnh trở ra và các nước ngoài về phía Bắc.
Đô sát viện: Tháng 9 năm 1832, Minh Mạng lập ra Đô sát viện. Nhiệm vụ của Đô sát viện là nhiệm vụ giám sát hoạt động của các quan chức trong hệ thống cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương. Đây là một cơ quan hoạt động độc lập không chịu một sự kiểm sát của bất kỳ cơ quan nào ở triều đình ngoài nhà vua. Các quan chức của Đô sát viện có nhiệm vụ phối hợp với Giám sát ngự sử 16 đạo để hoạt động kiểm soát và kiểm tra công việc của bộ máy quan lại.
Từ Minh Mạng về sau vẫn có đủ sáu bộ và sáu khoa. Sáu tự có nhiệm vụ giúp việc cho sáu bộ. Ngoài ra còn một số cơ quan chuyên môn như Quốc tử giám, Hàn lâm viện, Ti thông chích sứ, Bưu chính ti, Quan lộc tự, Tào chính ti, Tôn nhân phủ, Hà đê sứ, Doanh điền sứ. Cơ quan chỉ huy quan sự là Ngũ quân đô thống sứ.
Về cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương từ thời Minh Mạng có nhiều thay đổi, chặt chẽ hơn có tác dụng củng cố chế độ quân chủ chuyên chế và quốc gia thống nhất. Các đơn vị hành chính cấp thành, trấn bị bãi bỏ, thống nhất tên gọi các đơn vị cơ quan hành chính cấp trung gian trong cả nước là lien tỉnh và tỉnh, bãi bỏ các tên gọi doanh ở miền trung.
Nhìn lại quá trình tổ chức bộ máy nhà nước thời Nguyễn cho thấy bộ máy nhà nước đó ngày càng được củng cố chặt chẽ và hoàn thiện dưới thời vua Minh Mệnh qua cuộc cải cách hành chính và chính quyền từ trung ương đến địa phương vào những năm 1831- 1832
Thời Gia Long và những năm đầu thời Minh Mạng, bộ máy chính quyền còn đơn giản và lỏng lẻo trong thiết chế, tính chất phân quyền trong việc quản lý nhà nước còn bộc lộ khá rõ. Tầng lớp đứng đầu các cơ quan hành chính hầu hết xuất than từ võ quan . Đây là một hạn chế lớn của bộ máy chính quyền thời Gia Long, đầu thời Minh Menhj so với nhà nước Đại Việt thời Lý- Trần- Lê sơ. Sang thời Minh Mệnh những hạn chế đó đã được khắc phục dần.
Nguyên tắc bao trùm, chi phối trong tổ chức và hoaatj động của bộ máy nhà nước thời Nguyễn là tập trung thống nhất quyền lực vào một cá nhân- Hoàng đế, tăng cường sự quản lý, giám sát chặt chẽ của nhà nước trung ương đội với tất cả các địa phương, quan lại các cấp. Trong thực tế, việc làm đó đã có tác dụng củng cố chế độ trung ương tập quyền, thúc đẩy bộ máy chính quyền các cấp hoạt động hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, từ trong ý đồ, chủ trương và trong thực hiện bộ máy nhà nước thời Nguyễn là một nhà nước quân chủ tập trung quan liêu chuyên chế nặng nề. Một nhà nước quân chủ chuyên chế như vậy ở vào đêm hôm trước cuộc cách mạng công nghiệp và chủ nghĩa tư bản phương Tây đang chuẩn bị ráo riết xâm lược Việt Nam không còn phù hợp với xu thế của thời đại, yêu cầu lịch sử nước ta bây giờ, đưa đến hậu quả mất long dân, không củng cố được khối đoàn kết toàn dân tộc chung quanh nhà nước mà ngược lại, làm cho nhà nước đó trở nên bảo thủ, trì trệ, kìm hãm sự phát triển của đất nước, làm cho dân tộc ta không hòa nhập được với thế giới bên ngoài. Đây là mặt hạn chế cơ bản của nhà nước thời Nguyễn.
Tổ chức quân đội quốc phòng.
Dưới triều Nguyễn về mặt tổ chức quân đội, trên hết có 5 phủ đô đốc chỉ huy 5 quân ( trung quân, hậu quân, tiền quân, tả quân, hữu quân). Đứng đầu mỗi phủ Đô đốc có chức đô thống chưởng phủ sự, rồi đến các chức Thống chế, Chưởng vệ. Năm phủ đô đốc đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua. Vua nắm quyền tối hậu về việc điều động và chỉ huy quân đội.
Quân đội được chia làm 3 loại: Thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân binh có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua. Cấm binh bảo vệ hoàng thành, Tinh binh bao gồm cả bộ binh, thủy binh, tượng binh.
Sang thời Minh Mạng, quân đội gồm có 4 binh chủng: bộ binh, pháo binh,thủy binh, tượng binh. Tuy nhiên pháo binh và tượng binh còn là binh chủng phụ thuộc, chưa chở thành một binh chủng hoàn chỉnh và mạng như bộ binh và thủy binh.
Bộ binh có kinh binh và cơ binh, chia làm các doanh ( Mỗi doanh có 2500 người, vệ 500 người, đội 50 người, thập 10 người và ngũ 5 người. Kinh binh do thống chế chỉ huy. Mỗi vệ binh có 2 khẩu thần công, 200 súng diềm thương và 21 lá cở. Cơ binh là lính đóng ở các tỉnh do các lãnh binh, chánh và phó quản cơ chỉ huy. mỗi cơ có 10 đội được chia thành thập và 10 ngũ.
Tượng binh chia thành đội, mỗi đội có 40 thớt voi. ở kinh đô có 150 tớt voi. Tổng số có 500 thớt voi.
Thủy binh được chia là 3 doanh, có 15 vệ. Tổng chỉ huy là thủy binh sư đô đốc thống Doanh thì do đô thống và vệ do chưởng vệ chỉ huy.
Trên các binh chủng này có 4 quan đô thống chỉ huy. Đứng đầu 4 đô thống là Bộ thống trung quân.
Quân đội nhà Nguyễn có tổ chức chặt chẽ, có quy củ, từng bước đi vào chính quy hóa từ tổ chức đến trang bị, là một đội quân khá mạnh ở vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ. Thế nhưng quân đội dã không bảo vệ được nền độc lập của đất nước trước cuộc xâm lược của chủ nghĩa tư bản. Nguyên nhân thất bại không phai do tổ chức, trang bị, mà bởi đường lỗi đánh giặc sai lầm của triều Nguyễn.
Tình Hình Kinh tế
Tình hình ruộng đất và nông nghiệp
Triều Nguyễn quản lý đất nước từ năm 1802, đứng trước nhiều khó khăn thử thách to lớn đòi hỏi phải giải quyết trong nền kinh tế trong đó có nhiều vấn đề ruộng đất và đời sống nhân dân.
Theo trình tờ của các quan lại