Những vấn đề toàn cầu vấn đề cạn kiệt nguồn nước

Nước là một tài nguyên vô tận, là tặng phẩm không bao giờ cạn của thiên nhiên! – Đó chỉ còn là sự thực của cách đây hơn 30 năm. Còn ngày nay, khi cuộc sống đã có vô vàn những thay đổi, đặc biệt là những thay đổi trong kinh tế, đời sống sản xuất thì tình trạng thiếu hụt nước lại trở thành một trong những mối lo ngại hàng đầu của con người, của các quốc gia, thậm chí bao gồm cả các “ông lớn”! Hệ lụy của tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước là không thể lường trước, nó gây ra những ảnh hưởng to lớn tới từng cá thể trong cộng đồng quốc tế; cuộc sống sinh hoạt và sản xuất sẽ trở nên khó khăn hơn, dẫn đến tình trạng đói nghèo và những hệ quả liên quan. Hệ lụy nghiêm trọng hơn là những mâu thuẫn nảy sinh ở cấp độ quốc gia, khu vực, quốc tế. Chính những mâu thuẫn về tranh chấp sở hữu nguồn nước này có thể làm nảy sinh những cuộc chiến không mong muốn giữa các quốc gia hay giữa các khu vực, gây thiệt hại to lớn về người và của.

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5999 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề toàn cầu vấn đề cạn kiệt nguồn nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO NHỮNG VẤN ĐỀ TOÀN CẦU VẤN ĐỀ CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC Nhóm báo cáo: Nhóm đề 4 Hà Nội, 2/2008 LỜI MỞ ĐẦU Nước là một tài nguyên vô tận, là tặng phẩm không bao giờ cạn của thiên nhiên! – Đó chỉ còn là sự thực của cách đây hơn 30 năm. Còn ngày nay, khi cuộc sống đã có vô vàn những thay đổi, đặc biệt là những thay đổi trong kinh tế, đời sống sản xuất thì tình trạng thiếu hụt nước lại trở thành một trong những mối lo ngại hàng đầu của con người, của các quốc gia, thậm chí bao gồm cả các “ông lớn”! Hệ lụy của tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước là không thể lường trước, nó gây ra những ảnh hưởng to lớn tới từng cá thể trong cộng đồng quốc tế; cuộc sống sinh hoạt và sản xuất sẽ trở nên khó khăn hơn, dẫn đến tình trạng đói nghèo và những hệ quả liên quan. Hệ lụy nghiêm trọng hơn là những mâu thuẫn nảy sinh ở cấp độ quốc gia, khu vực, quốc tế. Chính những mâu thuẫn về tranh chấp sở hữu nguồn nước này có thể làm nảy sinh những cuộc chiến không mong muốn giữa các quốc gia hay giữa các khu vực, gây thiệt hại to lớn về người và của. Báo cáo gồm bốn nội dung nhằm làm rõ thực trạng của vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên toàn cầu, tìm ra những nguyên nhân vấn đề, những tác động của nó trong quan hệ quốc tế và đề xuất hướng giải quyết cho vấn đề. Danh mục tài liệu tham khảo và nguồn trích dẫn được sử dụng để hoàn thành báo cáo đã được nêu cụ thể trong nội dung báo cáo. Nhóm báo cáo Các khái niệm Từ trước đến nay có rất nhiều những khái niệm khác nhau liên quan đến nguồn nước nói chung. Dưới đây là một số khái niệm phổ biến nhất có đề cập đến trong bài báo cáo. Nguồn nước là khái niệm để chỉ các dạng nước tích tụ tự nhiên hoặc nhân tạo, có thể khai thác, sử dụng được, bao gồm: sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao; các tầng chứa nước dưới đất; mưa, băng tuyết và các dạng tích tụ nước khác. Nguồn nước quốc tế: Theo khoản a, điều 2, Công ước quốc tế về Sử dụng các nguồn nước quốc tế vào mục đích phi giao thông năm 1997 thì : “Nguồn nước quốc tế là hệ thống các nguồn nước mặt và nước nguồn, nước ngầm tạo thành một thể thống nhất bởi quan hệ mang tính vật lý và chảy vào một điểm cuối chung nằm trên lãnh thổ của hai hay nhiều quốc gia”. Nước là một tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của từng quốc gia cũng như của cả nhân loại. Tuy nhiên, những năm gần đây, vấn đề cạn kiệt nguồn nước đã trở nên báo động. Như thế nào là Cạn kiệt nguồn nước? Cạn kiệt nguồn nước là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của nguồn nước. Ở bài này, chúng tôi nghiên cứu chủ yếu vào vấn đề cạn kiệt nguồn nước ngọt và sạch, hay còn gọi là Tài nguyên nước. Nước được mệnh danh như “vàng xanh” của thế kỷ XXI, một tài nguyên chiến lược của mỗi quốc gia. Tại sao các quốc gia lại đề cao vai trò của nước như vậy? Tại sao cạn kiệt nguồn nước lại là một vấn đề mang tính toàn cầu? Để trả lời cho những câu hỏi đó, trước hết, chúng ta cần hiểu: Thế nào là một vấn đề toàn cầu? Những vấn đề toàn cầu là những vấn đề xảy ra trên phạm vi toàn cầu, gây ảnh hưởng tới nhiều quốc gia, gây ra những tác hại to lớn, và để giải quyết được nó thì cần sự phối hợp của nhiều quốc gia, một quốc gia đơn lẻ không thể tự giải quyết được vấn đề này. Những phân tích dưới đây của chúng tôi sẽ chỉ rõ rằng: Cạn kiệt nguồn nước là một vấn đề mang tính toàn cầu. Thực trạng vấn đề 1. Nguồn nước đang cạn kiệt Theo báo cáo của Ủy ban tài nguyên thiên nhiên (UNEP) của Liên hợp quốc năm 2003, hiện nay, 40% dân số thế giới ở hơn 80 quốc gia đang trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng và dự báo rằng, đời sống sẽ tồi tệ hơn nhiều trong 50 năm tới. Cũng theo báo cáo này thì trên 1/3 dân số (khoảng 2.4 tỷ người) không có các điều kiện vệ sinh đầy đủ do khan hiếm và ô nhiễm nước sinh hoạt. Mỗi năm có hàng triệu người chết vì những căn bệnh có liên quan đến việc dùng nước bị ô nhiễm. Trữ lượng nước tính theo đầu người của thế giới đang suy giảm một cách nghiêm trọng. Năm 1950, khối lượng nước tính theo đầu người là 16800m3/người/năm thì hiện nay, con số này là 7300m3/người/năm. Như vậy, lượng nước tính theo đầu người của thế giới đã giảm xuống một nửa so với những năm 1950. Các chuyên gia dự đoán rằng đến năm 2025, khối lượng nước theo đầu người của thế giới chỉ còn 4800m3/người/năm. Quốc tế lấy lượng nước 1000m3/người/năm làm “tuyến cảnh báo”. Cách đây 50 năm, không một nước nào trên thế giới phải đối mặt với mực nước thấp “thảm hại” này. Nhưng ngày nay, 50% dân số thế giới đang phải sống trong tình cảnh này và dự đoán đến năm 2025, 2/3 dân số thế giới phải chịu cảnh mức độ cấp nước từ thấp (2100-5000m3/người/năm) đến rất thấp (1100-2000m3/người/năm) và “thảm hại”. 2. Cạn kiệt nguồn nước là một vấn nạn diễn ra trên phạm vi toàn thế giới Khu vực Trung Đông và Bắc Phi là những khu vực thiếu nước nghiêm trọng. Mỗi năm gần 2/3 khu vực châu Phi đứng trước nguy cơ hạn hán, trong đó, 6 nước Trung Phi và 5 nước Bắc Phi là những quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Năm 2005, lượng nước bình quân theo đầu người của khu vực này chỉ là 677 m3/người/năm, thấp hơn rất nhiều so với “tuyến cảnh báo” mà quốc tế đưa ra; đặc biệt, một số nước như Xyri, Ả rập Xê út, Giooc đa ni, Yê men, lượng nước bình quân theo đầu người chỉ đạt 100-200m3/người/năm. Khu vực Châu Á là khu vực có tài nguyên nước rất phong phú nhưng do sự tăng trưởng dân số và kinh tế nên nhu cầu về nước ở khu vực này ngày càng gia tăng. Theo dự đoán, chỉ trong một thời gian ngắn nữa, châu Á sẽ phải đổi mặt với tình trạng thiếu nước nghiêm trọng. Theo báo cáo nghiên cứu của một số chuyên gia quốc tế về tài nguyên nước, đến thế kỷ XXI, phần lớn các nước Châu Á sẽ phải đứng trước vấn đề thiếu nước. Cụ thể: Khu vực Nam Á, hạn hán ngày càng trầm trọng, các nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, diện tích biển Aran bị thu hẹp. Điển hình là Trung Quốc, tổng lượng tài nguyên nước của Trung Quốc đứng thứ 6 thế giới, nhưng lượng nước bình quân tính theo đầu người chỉ có 2400m3/người/năm, thấp hơn rất nhiều so với lượng nước bình quân theo đầu người của thế giới là 7300m3/người/năm, đứng ở vị trí 109/192 quốc gia và bị xếp vào một trong số các quốc gia thiếu nước trên thế giới. Khu vực Trung Á cũng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước. Hiện nay, một số quốc gia trong khu vực này đã có những biện pháp để bảo vệ nguồn nước. Khu vực Tây Á là khu vực có mối đe dọa lớn nhất về nước ở Châu Á với hơn 90% dân số đang chịu những áp lực nặng nề về thiếu nước. Việt Nam trong những năm gần đây cũng thường xuyên ở trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô, gây những ảnh hưởng nghiêm trọng cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của con người. Mùa khô vừa qua, do tình trạng thiếu hụt nước nghiêm trọng khiến các địa phương phải đau đầu trong việc giải quyết nguồn nước cho hoạt động tưới tiêu trong nông nghiệp. Điện năng, cũng do nguồn nước cạn kiệt mà không đủ cung cấp điện cho cả nước trong mùa nóng nực, gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Khu vực Châu Mỹ: Tài nguyên nước ở khu vực này phong phú nhưng lại phân bổ không đồng đều giữa các quốc gia, hoặc giữa các vùng trong cùng một quốc gia. Do vậy, nhiều nới ở Châu Mỹ cũng đang phải chịu cảnh thiếu nước nghiêm trọng Khu vực Châu Âu: Cũng là một khu vực có nguồn nước phong phú song dự báo có khả năng khu vực này phải chịu tình cảnh hạn hán xảy ra trên diện rộng trong vòng vài thập niên tới. Như vậy, qua việc phân tích ở trên, có thể thấy rằng: cạn kiệt nguồn nước không chỉ diễn ra trên một quốc gia, một khu vực mà nó diễn ra ở hầu hết các nước, các khu vực trên thế giới. Do đó, những khó khăn do vấn đề cạn kiệt nguồn nước đem lại không chỉ cho một quốc gia hay khu vực riêng lẻ mà cho toàn bộ nhân loại – một vấn đề chung của cả loài người. Vì thế, lẽ đương nhiên, để giải quyết vấn đề cạn kiệt nguồn nước cần sự phối hợp của tất cả các quốc gia, các tổ chức có liên quan. Trên thực tế, vấn đề cạn kiệt nguồn nước đang là vấn đề quan tâm của thế giới. Kể từ hội nghị đầu tiên của Liên hợp quốc về nước diễn ra ở Mar del Plata năm 1977, thì đến nay, Liên hợp quốc đã phát động và tổ chức rất nhiều diễn đàn, hội nghị quốc tế để tìm ra biện pháp khắc phục tình trạng thiếu nước của thế giới như Hội nghị của năm trăm chuyên gia vào tháng Giêng năm 1992 tại Dublin (Ailen), Hội nghị bộ trưởng năm 1994 về nước sinh hoạt và làm sạch môi trường vùng Noordwijk (Hà Lan); hay Diễn đàn thế giới về nước ở Marrakech năm 1997 và La Haye năm 2000… Tóm lại, cạn kiệt nguồn nước là một vấn đề mang tính toàn cầu, một vấn đề mà hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Đó cũng là một vấn đề mang tính thời sự quốc tế. Nhiều dự báo đáng lo ngại về việc tăng nhu cầu về nước đã được đăng tải trên trang nhất các báo. Mức tăng thực tế thấp hơn nhiều so với dự báo ban đầu nhưng nó cũng phản ánh mức tăng đáng kể và vấn đề nguồn nước đang trở lại là vấn đề hàng đầu ở thế kỷ XXI và không ngày nào báo chí lại không đề cập đến vấn đề này. Nhưng những nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó? Nguyên nhân của vấn đề Những nguyên nhân khách quan Xuất phát từ những đặc trưng của nguồn nước như: sự khan hiếm, tính không thể thay thế, sự phân bố không đồng đều. a. Tính khan hiếm Người Trung Quốc thường nói: “vật hiếm là quý”, nước không phải là tài nguyên vô cùng vô tận, giơ tay ra là lấy được, mà là tài nguyên vô cùng quý giá và ít ỏi. Phải khẳng định rằng nước ở xung quanh chúng ta rất phong phú, 70% diện tích trái đất được bao phủ bởi nước. Nhưng 97,5% trong số đó là nước mặn, chỉ có 2,5% là nước ngọt. Trong khối lượng nước ngọt đó có tới 74% là nước ở trạng thái băng tuyết ở hai cực Nam-Bắc địa cầu và các dòng sông băng; 22,4% phân bố ở những chỗ sâu dưới lòng đất hay tích tụ dưới dạng sương mù và độ ẩm; một phần khác nằm trong bề mặt trái đất; trong khí quyển và trong các thể sinh vật, chỉ có 0,4% là nước ngọt. Trong tổng số nước ngọt của trái đất, con người có thể khai thác chưa tới 1% để phục vụ nhu cầu của mình. Lượng nước ngọt con người sử dụng hiện nay là nước mưa. Lượng nước mưa trên trái đất vào khoảng 105 000km3/năm, trong đó con người mới sử dụng được khoảng 35000 km3, trong đó: 8% cho các mục đích sinh hoạt đời sống, 23% cho công nghiệp và cho các hoạt động nông nghiệp là 63%. b. Tính không thể thiếu Nhu cầu về nước của nhân loại ngày càng cao. Nếu thiếu nước con người không thể tồn tại và phát triển, các hoạt động sinh hoạt sản xuất không thể diễn ra. Do vậy, nước có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cũng như sinh hoạt, lao động sản xuất của con người. Như chúng ta đã biết, 70% cơ thể con người là nước, nếu thiếu nước trong 10 ngày thì con người không thể tồn tại. Đối với quá trình sản xuất và đời sống xã hội, như đã đề cập ở trên, nước có vai trò vô cùng lớn và cực kì quan trọng. Nước quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đặc biệt, theo tính toán hiện nay, sản xuất nông nghiệp tiêu thụ tới 63% lượng nước ngọt trên thế giới. Vì tầm quan trọng đó của nước, nước còn được coi là tài nguyên chiến lược của mỗi quốc gia. c. Tính khó có thể thay thế Hiện nay, theo dự đoán, con người khó có thể tìm ra sản phẩm thay thế nước hơn tìm ra sản phẩm có thể thay thế dầu mỏ hay gỗ. Với trình độ khoa học kỹ thuật đương đại, con người đã bắt đầu công việc biến nước biển thành nước ngọt nhưng tình trạng thiếu nước vẫn chưa được khắc phục do thiếu vốn và công nghệ. Trong khi đó, nước là tài nguyên không thể tái tạo. Do vậy, trước mắt khó có thể giải quyết vấn đề cạn kiệt nguồn nước bằng khoa học kỹ thuật. d. Phân bố không đồng đều Xét từ góc độ địa lý: một số quốc gia và khu vực có nguồn tài nguyên nước rất lớn, trong khi một số quốc gia lại đứng trước nguy cơ thiếu nước trầm trọng. Vùng Trung Đông và Bắc Phi là những vùng thường xuyên bị khô hạn, lượng mưa trung bình hàng năm chỉ đạt 100mm; có vùng như Xyri, Ả rập Xê út…, lượng nước bình quân theo đầu người chỉ có 100-200 m3/người/năm; trong khi đó, một số quốc gia như Braxin, Nga, Canada, Mỹ, Ấn Độ… lại chiếm 40% lượng nước của thế giới. Xét từ góc độ của mỗi quốc gia: lượng nước phân bố không đồng đều. Phần lớn là tài nguyên nước chảy qua các khu vực không có người, trong khi những khu vực có đông dân cư lại thiếu nước nghiêm trọng. Lượng nước của sông Daia chiếm 30% lượng nước tái sinh của Châu Phi nhưng con sông này chủ yếu chảy qua những vùng dân cư thưa thớt, do vậy, phần lớn người dân của châu lục này sống trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng. Sông Amazon có lưu lượng nước chiếm 60% lượng nước ở Nam Mỹ nhưng nó không chảy qua các khu dân cư đông đúc nên lượng nước của nó không được sử dụng triệt để. Sự phân bố không đồng đều của các nguồn nước còn được biểu hiện theo mùa, có mùa lượng mưa tập trung thành lũ, có mùa lại hạn hán. Sự phân bố không đồng đều này gây ra tình trạng lãng phí nước, đồng thời làm cho các quốc gia dễ xảy ra tranh chấp. Ở Việt Nam, nguồn nước phân bố giữa các vùng hay giữa hai miền Nam – Bắc cũng có sự bất đồng đều, khiến nhiều nơi thường xuyên xảy ra tình trạng thiếu nước vào mùa khô, có nơi lại quá dư thừa lượng nước. e. Tính xuyên biên giới và xuyên khu vực Tài nguyên nước không phân bố theo biên giới hành chính của quốc gia, dân tộc. Trên toàn thế giới có khoảng 263 lưu vực sông lớn, chiếm tới 45,3% diện tích bề mặt trái đất (trừ Nam Cực). Ở các lưu vực này, tập trung ½ dân số thế giới. 1/3 trong tổng số các con sông đó đang được hai hay nhiều nước sử dụng. Các khu vực nước ngầm thường được nhiều nước chia sẻ, trong khi nước ngầm chiếm 98% nguồn nước cung cấp nước ngọt cho con người trên thế giới. Do vậy, nhiều xung đột, mâu thuẫn do liên quan đến khai thác và sử dụng nguồn nước đã xảy ra ở nhiều nước và nhiều khu vực. Những nguyên nhân chủ quan a. Sự tăng nhanh của dân số thế giới Trước tiên, dân số thế giới tăng nhanh làm tài nguyên nước ngày càng cạn kiệt. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế do sự gia tăng dân số, từ đầu thế kỷ XX đến nay, theo đà tăng của dân số, lượng nước dùng trong công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt không ngừng tăng lên. Từ năm 1975 đến năm 1990, lượng nước dùng trong nông nghiệp toàn cầu tăng lên 6 lần, trong công nghiệp tăng 21 lần, nước sinh hoạt của thành phố tăng 7,5 lần. Sự tăng trưởng dân số ở các quốc gia đang phát triển đi đôi với sự thiếu nước ngày càng trầm trọng. b. Môi trường sinh thái bị phá hoại Sự phá hoại môi trường sinh thái cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm tài nguyên nước ngọt của đất liền, như: chặt phá rừng bừa bãi, đất bị thoái hóa… Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu khiến nước bốc hơi nhanh cũng là một nguyên nhân làm giảm tài nguyên nước. c. Sự ô nhiễm tài nguyên nước Tài nguyên nước bị ô nhiễm làm cho chất lượng nước bị giảm cùng với sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp và sự tăng lên của nước sinh hoạt thành phố, sự ô nhiễm toàn cầu ngày càng nghiêm trọng, nguồn nước tự nhiên bị nước thải công nghiệp-nông nghiệp và nước sinh hoạt không được xử lý làm ô nhiễm. Do vậy, các nguồn nước ngầm bị ô nhiễm nghiêm trọng. Người ta ước tính rằng khoảng 90% nước đã được sử dụng trong các nước đang phát triển không được xử lý mà đổ trực tiếp vào môi trường. Hầu hết các con sông lớn trên thế giới như sông Nil (châu Phi), sông Amazon (châu Mỹ), sông Trường Giang (châu Á)… đều bị ô nhiễm ở mức nhất định. d. Sự không hợp lý trong sử dụng và quản lý nguồn nước Sử dụng và quản lý nguồn nước không hợp lý làm cho tài nguyên nước bị lãng phí nghiêm trọng, nhất là sản xuất nông nghiệp. Một lượng lớn nước dùng trong thủy lợi đã bị thất thoát qua các hệ thống tưới tiêu kém hiệu quả và do rò rỉ, bốc hơi ở các vùng đô thị. e. Sự hạn chế về cơ sở vật chất kỹ thuật Do hạn chế về mặt tiền vốn, kỹ thuật đầu tư vào việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn nước nên việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này còn nhiều hạn chế, gây ra những thất thoát lãng phí. Đối với Việt Nam, một trong những nguyên nhân chính làm cho nguồn nước ở Việt Nam ngày càng cạn kiệt là do nguồn nước bị ô nhiễm. Mới đây, một tổ chức của Liên Hợp Quốc đã công bố những thành phố ô nhiễm nhất trên thế giới, trong tổng số 9 thành phố thì đã có 2 thành phố của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội. Ô nhiễm môi trường chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ô nhiễm nguồn nước, khiến nguồn nước ngọt của Việt Nam ngày càng cạn kiệt. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước nông nghiệp, tuy gần đây, chính phủ Việt Nam đã có những cố gắng để kiên cố hóa kênh mương cũng như vấn đề thủy lợi, nhưng lượng nước ngọt thất thoát trong nông nghiệp vẫn còn rất lớn. Ngoài ra, còn do nguyên nhân diện tích rừng bị thu hẹp một cách đáng kể. Tác động đến Quan hệ quốc tế Cạn kiệt nguồn nước ngày càng trở thành vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới, nó không chỉ gây ra những khó khăn, bất ổn kinh tế-xã hội trong nội bộ quốc gia đó mà còn khiến cho một số quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng và dễ dẫn tới những xung đột giữa các quốc gia có liên quan. 1. Cạn kiệt nguồn nước khiến cho các mối quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng, bất ổn định 1.1. Những tranh chấp từ sự phân bố không đồng đều nguồn nước Đặc tính này của nước buộc các quốc gia phải hợp tác với nhau. Tuy nhiên, quá trình hợp tác đã nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn. Vùng Trung Đông là hình mẫu của những vùng mà ở đó nhà thuỷ văn học trở thành nhà ngoại giao hay nhà quân sự, tóm lại là nằm trong bộ máy quyền lực. Nhiều vụ tranh chấp và xung đột đã xảy ra liên quan đến việc phân chia nước như: "Thổ Nhĩ Kỳ giữ lập trường dùng sức mạnh đối với Xyri, Irắc và Iran phân chia nước sông Tigre và Euphrate", hay "việc phân chia nước sông Jourdain và Yarmouk gắn liền số phận của Ixraen, Palextin, Xyri và Gioocdan". Việc các quốc gia này hợp tác với nhau không những không tìm ra được giải pháp mà ngày càng xuất hiện nhiều hơn các mâu thuẫn và mỗi bên đều công khai những lợi ích khác biệt, không muốn nhượng bộ, và đúng như Tổng thư ký Liên hiệp quốc, ông B.B.Gali đã từng cho rằng, từ năm 1982, "Nguyên nhân chính đe doạ hoà bình Trung Đông là thiếu hụt tài nguyên nước". 1.2. Những mâu thuẫn từ nguồn nước chung Thực tế có rất nhiều trường hợp nhiều quốc gia sử dụng chung một nguồn nước, với những quốc gia này, nếu có mâu thuẫn về chế độ chính trị, chủng tộc, tôn giáo, lợi ích kinh tế… thì rất dễ xảy ra các tranh chấp về sự phân phối sử dụng, quản lý nguồn nước. Quốc gia có nguồn nước bắt nguồn rất có thể lấy việc ngăn chặn dòng chảy nguồn nước để đe dọa hay làm phương tiện mặc cả lợi ích với quốc gia khác khi xảy ra mâu thuẫn. Khu vực Trung Đông là một ví dụ điển hình cho mâu thuẫn giữa những quốc gia chung một nguồn nước nhưng có xung đột về chính trị: “55% tài nguyên nước của Ixraen bắt nguồn từ các nước Ả rập và 2/3 số dân nói tiếng Ả rập phải sống nhờ vào các dòng sông bắt nguồn từ các quốc gia không phải là Ả rập”, trong khi chúng ta biết xung đột về chính trị giữa Ixraen và các nước Ả rập đang ngày một leo thang mặc cho những nỗ lực thiết lập hòa bình của Liên hợp quốc và các nước lớn tại khu vực này. Chính những xung đột này đã khiến cho vấn đề phân bổ và quản lý nguồn nước khu vực này vốn đã rất khó khăn nay lại càng trở nên phức tạp và khó giải quyết bằng con đường thương lượng, hòa bình hơn. 1.3. Vấn đề di dân Khủng hoảng tài nguyên nước, với những nguy cơ cạn kiệt nguồn nước và ô nhiễm nguồn nước dễ dẫn tới vấn đề di dân, người dân của quốc gia thiếu nước sẽ tìm đến những nước dồi dào nước hơn để sinh sống và làm việc, tạo nên một sự bất ổn chính trị - xã hội cho quốc gia khủng hoảng nước và cả những quốc gia liên quan, trở thành gánh nặng của các cơ quan chức năng về giải quyết và quản lý dân tị nạn. Vấn đề này nếu không được nhanh chóng giải quyết thì dễ dẫn đến những xung đột quốc tế, xung đột giữa dân di cư và dân bản địa về lợi ích của nguồn nước. Có thể coi đây là những tác động lớn nhất của vấn nạn cạn kiệt nguồn tài nguyên nước tới quan hệ quốc tế. Nó gây ra những bất ổn trên diện rộng, trên nhiều lĩnh vực, làm cho vấn đề trở nê
Luận văn liên quan