Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của học 
thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản 
của chủ nghĩa Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã 
muasức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản 
phẩm, thu về giá trị thặng dư . Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần 
giá trị sức lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc 
lột giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ 
bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Giá trị 
thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức 
lao động và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ cơ bản nhất đó. 
Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là 
nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trịthặng dư là cơ 
sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến 
tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo 
ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính 
của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó 
quyết định sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng 
một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản 
chủ nghĩa.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4605 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích bản chất của phạm trù giá trị thặng dư - Trong bộ tư bản C. Mác đã phân tích như thế nào về phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Đề Tài: 
Phân tích bản chất của phạm trù giá trị 
thặng dư. Trong bộ tư bản C. Mác đã 
phân tích như thế nào về phương pháp 
sản xuất ra giá trị thặng dư 
1 
PHẦN I : MỞ ĐẦU 
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của học 
thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản 
của chủ nghĩa Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã 
mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản 
phẩm, thu về giá trị thặng dư . Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần 
giá trị sức lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc 
lột giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. 
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ 
bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Giá trị 
thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức 
lao động và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ cơ bản nhất đó. 
Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là 
nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ 
sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến 
tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo 
ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối. 
Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính 
của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó 
quyết định sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng 
một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản 
chủ nghĩa. 
Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư và các phương pháp sản xuất ra 
giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, là chìa khóa dẫn đến những vấn đề khác 
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn 
chọn đề tài: “Phân tích bản chất của phạm trù giá trị thặng dư. Trong bộ tư 
2 
bản C. Mác đã phân tích như thế nào về phương pháp sản xuất ra giá trị 
thặng dư” cho bài tập lớn của mình. 
Do thời gian có hạn, nên bài viết không thể tránh khỏi những hạn chế nhất 
định. Vậy tôi kính mong các quí thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết 
được hoàn chỉnh hơn. 
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Phạm Quang Phan đã giúp đỡ 
tôi hoàn thành bài tập lớn này. 
3 
PHẦN II 
LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 
I- PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ: 
1- Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản: 
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng 
bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử 
dụng để bóc lột lao động của người khác. 
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hoá thì chúng là phương tiện giản đơn 
của lưu thông hàng hoá và vận động theo công thức: Hàng- Tiền- Hàng(H-T-H), 
nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hoá 
thành hàng. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: Tiền - 
Hàng - Tiền (T-H-T), tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá 
ngược lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T 
đều được chuyển hoá thành tư bản. 
Do mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng nên vòng lưu 
thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử 
dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông của tiền tệ với tư cách là tư 
bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì 
vậy nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. 
Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ 
của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền 
ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành 
tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông T-
H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là 
không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. 
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông theo công thức T-
H-T’, do đó công thức này được gọi là công thức chung của tư bản. 
4 
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay người chủ của nó 
thì thêm một lượng nhất định (∆T). Vậy có phải do bản chất của lưu thông đã 
làm cho tiền tăng thêm, và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay không? 
Các nhà kinh tế học tư sản thường quả quyết rằng sự tăng thêm đó là do lưu 
thông hàng hoá sinh ra. Sự quả quyết như thế là không có căn cứ. 
Thật vậy, trong lưu thông nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự 
thay đổi hình thái của giá trị, còn tổng số giá trị, cũng như phần giá trị thuộc về 
mỗi bên trao đổi là không đổi. Về mặt giá trị sử dụng, trong trao đổi cả hai bên 
đều không có lợi gì. Như vậy, không ai có thể thu được từ lưu thông một lượng 
giá trị lớn hơn lượng giá trị đã bỏ ra (tức là chưa tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T). 
C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản không có bất kì một nhà tư bản nào chỉ 
đóng vai trò là người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố 
sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi 
mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị 
và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn 
không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T. 
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ được lợi 
khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. 
Như vậy việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá 
trị của nó. 
Mác lại giả định rằng trong xã hội tư bản có một loại nhà tư bản rất lưu manh 
và xảo quyệt, khi mua các yếu tố sản xuất thì rẻ, còn khi bán thì đắt. Điều này 
chỉ giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không thể 
giải thích được sự làm giàu của tất cả giai cấp tư sản, vì tổng số giá trị trước lúc 
trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi đều không thay đổi mà chỉ có sự 
thay đổi trong việc phân phối giá trị giữa những người trao đổi mà thôi. Và Mác 
kết luận rằng đây chẳng qua là hành vi móc túi lẫn nhau giữa các nhà tư bản 
trong cùng giai cấp. 
5 
Vậy từ ba trường hợp cụ thể trong lưu thông Mác cho rằng: Trong lưu thông 
không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư vì vậy không thể là nguồn gốc sinh ra 
∆T. 
Ở ngoài lưu thông Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và tiền tệ: 
Đối với hàng hoá ngoài lưu thông: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng hay sử 
dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử dụng và giá 
trị của sản phẩm đều biến mất theo thời gian. 
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngoài lưu thông là tiền tệ nằm im một chỗ. Vì 
vậy không có khả năng lớn lên để sinh ra ∆T. 
Vậy ngoài lưu thông khi xem xét cả hai yếu tố hàng hoá và tiền tệ đều không 
tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T. 
“ Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện 
ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không 
phải trong lưu thông” (C.Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987, Q1, tập 1,tr 
216). Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. 
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát hiện ra rằng: Ở 
trong lưu thông người có tiền là nhà tư bản phải gặp được một người có một thứ 
hàng hoá đặc biệt đem bán, mà thứ hàng hoá đó khi đem tiêu dùng hay sử dụng 
nó có bản tính sinh ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, 
hàng hoá đặc biệt đó chính là sức lao động. 
2- Hàng hoá - sức lao động: 
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải thông 
qua hàng hoá được mua vào (T-H). Hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc 
biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng 
hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. 
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con 
người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất 
ra một giá trị sử dụng. 
6 
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến 
thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định. 
C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều 
kiện tiền đề: 
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao 
động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao 
động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình. 
Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô 
sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống. 
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động 
biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định của sự chuyển hoá tiền 
thành tư bản. 
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc 
tính là giá trị và giá trị sử dụng. 
Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần 
thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân 
tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân. 
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ: Nó 
phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng 
có sự khác nhau căn bản: Giá trị của hàng hoá thông thường biểu thị hao phí lao 
động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá - sức lao động lại là sự hao 
phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để 
nuôi sống người công nhân. Còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố vật chất, nó 
còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống, nghề 
nghiệp mà hàng hoá thông thường không có. 
Cũng giống như các hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động có khả 
năng thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng giá trị sử 
dụng của hàng hoá sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hoàn toàn với 
hàng hoá thông thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì không 
7 
những không bị tiêu biến theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà ngược lại 
nó lại tạo ra một lượng giá trị mới c + m ( c + m > v, với v là giá trị sử dụng của 
bản thân nó). Khoản lớn lên được sinh ra trong quá trình sử dụng sức lao động 
chính là ∆T hay giá trị thặng dư. 
Từ đó Mác kết luận: Hàng hoá - sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị hơn 
thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động càng đem 
tiêu dùng hay sử dụng thì người công nhân hay người lao động càng tích luỹ 
được kinh nghiệm nghề nghiệp, càng nâng cao năng suất lao động. Vì vậy sẽ 
làm giảm giá trị hay mức tiền lương mà nhà tư bản đã trả cho họ. Vì vậy, dưới 
chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản rất ưa thích loại hàng hoá đặc biệt này. 
Vậy quá trình người công nhân tiến hành lao động là quá trình sản xuất ra 
hàng hoá và đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân 
giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã 
chiếm đoạt. Như vậy, hàng hoá - sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra 
giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá - sức lao động so với các hàng 
hoá khác. Nó là chìa khoá để giải thích tính mâu thuẫn của công thức chung của 
tư bản. 
3- Bản chất giá trị thặng dư: 
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản 
xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ 
vì nó là vật mang giá trị trao đổi. 
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi, nghĩa 
là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị 
lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản 
đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư. 
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản 
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “ 
Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá 
trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự 
8 
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản 
xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của 
nền sản xuất hàng hoá”. 
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động 
có hai đặc trưng: 
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống 
như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiêụ 
quả nhất. 
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của 
người công nhân 
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên cứu 
quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử dụng phương pháp 
giả định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu: Không 
xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản 
xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu 
trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn. 
Từ các giả định đó, Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu: 
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị 
máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 
ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 
giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi. 
Từ đó, có bảng quyết toán như sau: 
Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới 
Giá 10 kg bông 
10 đôla 
Lao động cụ thể của công 
nhân bảo tồn và chuyển giá 
trị 10 kg bông vào 10 kg 
sợi. 
10 đôla 
Hao mòn máy móc 2 đôla Khấu hao tài sản cố định 2 đôla 
9 
Tiền thuê sức lao động 
trong một ngày 
4 đôla Giá trị mới do 8 giờ lao 
động của người công nhân 
tạo ra 
8 đôla 
Tổng chi phí sản xuất 
16 đôla 
Tổng doanh thu 
20 đôla 
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi 
phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng 
ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư. 
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau: 
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu 
thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền 
thành tư bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong 
lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá 
đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đó 
trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho 
nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản. 
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), chúng ta thấy 
có hai phần: 
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà 
được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ. 
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động 
gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá 
trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. 
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành 
hai phần: 
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này người công 
nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức 
tiền công mà nhà tư bản đã trả cho mình (4 đôla). 
10 
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong thời gian lao 
động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức 
lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 
đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt). 
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư: 
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do 
công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. 
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi 
điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới 
ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho 
họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới 
hạn tại điểm đó giá trị sức lao động được trả ngang giá. 
3- Tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản: 
Trong nền kinh tế tư bản người công nhân sau quá trình làm việc cho nhà tư 
bản sẽ nhận được một khoản thu nhập dưới hình thức tiền công hay tiền lương. 
Với cách trả lương như vậy các nhà lí luận tư sản khẳng định rằng tiền lương 
hay tiền công là giá cả của lao động. Và trong quá trình sản xuất nhà tư bản trả 
đúng giá cả của lao động. Vì vậy dưới chủ nghĩa tư bản không có bóc lột. 
Nhưng C.Mác đã khẳng định tiền lương không phải là giá cả của người lao 
động. Bởi vì, lao động là một phạm trù trừu tượng nên người ta không thể bán 
cái trừu tượng. Hơn nữa, lao động chỉ thể hiện khi vận dụng sức lao động để tiến 
hành quá trình sản xuất. 
Vì vậy Mác khẳng định: Tiền lương chính là giá cả của sức lao động nhưng 
nó được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Bởi vì sức lao động 
phản ánh năng lực lao động của mỗi con người, nó là cái có thật thể hiện toàn bộ 
ở sức óc, sức thần kinh và sức cơ bắp của con người. Nó nói lên năng lực và khả 
năng của từng người. Vì vậy mỗi một sức lao động khác nhau sẽ có một giá cả 
khác nhau. 
11 
Việc nghiên cứu bản chất tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản cho ta thấy tiền 
lương chỉ là một phần giá trị của sức lao động của công nhân tạo ra, nó tương 
ứng với thời gian lao động cần thiết của người công nhân trong xí nghiệp nhà tư 
bản. Phần giá trị còn lại do sức lao động tạo ra là giá trị thặng dư thuộc về nhà tư 
bản. 
II- CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ: 
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai 
cấp tư sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư. 
Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư 
tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối. 
1- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối: 
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối 
thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao 
động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không 
đổi). 
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 
100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao 
động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt 
đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% 
(m’ = 200%) 
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài 
ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các 
nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là 
hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài 
thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công 
nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức 
lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố 
vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh 
hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào 
12 
của gi