Trong vận chuyển hàng hóa quốc tế hiện nay, khối lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển ngày càng chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các phương tiện còn lại. Vận chuyển hàng hóa bằng đường biển có lợi thế rất lớn là do giá thành rẻ, vận chuyển hàng đa trường, đa trọng, nhưng cũng có hạn chế tốc độ vận chuyển chậm. Phương thức vận chuyển đường biển ngày càng được hiện đại hóa cao hơn và là một phương thức chủ đạo trong vận chuyển đa phương thức.
Hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta được vận chuyển bằng đường biển chiếm hơn 90%. Điều này chứng tỏ vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở nước ta có một vị thế đặc biệt. Việc nghiên cứu luật hàng hải quốc tế ở nước ta ngày nay càng trở nên cần thiết và hữu dụng khi chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương Mại thế giới và buôn bán thông thương hàng hóa giữa Việt Nam với nước ngoài ngày càng gia tăng về số lượng và chủng loại.
Khi vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ các hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển để nắm được nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Các quy định này được đề cập rõ trong Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 cũng như các công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Đề tài phân tích những quy định theo Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 và các công ước quốc tế về vận tải biển về hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, trong đó tập trung làm rõ trách nhiệm của người chuyên chở với ba nội dung chính, bao gồm cơ sở trách nhiệm, thời hạn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm. Từ đó sẽ thấy được những điểm tương đồng cũng như những nét khác biệt trong quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam (luật quốc gia) so với các điều ước quốc tế về vận tải biển (luật quốc tế) và đưa ra nhận xét những mặt ưu điểm và hạn chế của luật quốc gia so với luật quốc tế quy định về trách nhiệm của người vận chuyển. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đưa ra những đề xuất sửa đổi và bổ sung quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý ở Việt Nam, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập một trong các công ước quốc tế về vận tải biển.
Đề tài được sử dụng phương pháp phân tích các điều khoản trong bộ Luật Hàng hải Việt Nam, so sánh các quy định này với các công ước quốc tế về vận vận tải biển, sau đó tổng hợp để có những kiến nghị, đề xuất.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về luật hàng hải quốc tế.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo Luật Hàng hải Việt Nam 2005 so với các Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Chương 3: Việt Nam và việc gia nhập các Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
70 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7471 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích những quy định của bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 về hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển trên cơ sở so sánh với các công ước Quốc Tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
LỜI MỞ ĐẦU 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÀNG HẢI QUỐC TẾ 7
1. 1. Khái niệm chung về luật hàng hải quốc tế 7
1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hàng hải quốc tế 8
1.3. Nguồn của luật hàng hải quốc tế 9
1.3.1. Điều ước quốc tế 9
1.3.1.1. Khái niệm điều ước quốc tế 9
1.3.1.2. Tên gọi của điều ước quốc tế 10
1.3.1.3. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải 10
1.3.2. Luật quốc gia 18
1.3.2.1. Khái niệm Luật quốc gia 18
1.3.2.2. Luật các quốc gia trên lĩnh vực hàng hải 18
1.3.2.3. Luật hàng hải Việt Nam 20
1.3.3. Tập quán hàng hải quốc tế 21
1.3.3.1. Khái niệm tập quán quốc tế 21
1.3.3.2. Tập quán hàng hải quốc tế 22
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG CHUYÊN CHỞ HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN THEO LUẬT HÀNG HẢI VIỆT NAM 2005 SO VỚI CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 24
2.1. Khái niệm chung về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển 24
2.2. Đặc điểm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển 25
2.2.1. Đặc điểm về chủ thể 25
2.2.2. Đặc điểm về hình thức 26
2.2.3. Đặc điểm về đối tượng 26
2.3. Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển 27
2.3.1. Hợp đồng chuyên chở hàng hóa theo chứng từ vận chuyển (thuê tàu chợ) 27
2.3.1.1. Khái niệm và đặc điểm 27
2.3.1.2. Trách nhiệm của các bên 29
2.3.1.2.1. Trách nhiệm của người thuê chở (người thuê vận chuyển) 29
2.3.1.2.2.Trách nhiệm của người chuyên chở (người vận chuyển) 31
2.3.2. Hợp đồng chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu bằng tàu chuyến 44
2.3.2.1. Khái niệm và đặc điểm 44
2.3.2.2. Nghĩa vụ của các bên 46
2.3.2.2.1. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người thuê chở 46
2.3.2.2.2. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở 49
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VÀ VIỆC GIA NHẬP CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 53
3.1. Pháp luật Việt Nam về việc gia nhập các điều ước quốc tế 53
3.1.1. Các văn bản pháp luật về điều ước quốc tế trước Hiến pháp 1992 53
3.1.2. Pháp luật về điều ước quốc tế từ Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2001 54
3.1.3. Pháp luật hiện hành về điều ước quốc tế 55
3.2. Sự cần thiết của việc gia nhập các Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển 56
3.3. Sửa đổi Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 cho phù hợp với Quy tắc Rotterdam 58
3.3.1. Một số hạn chế của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 58
3.3.2. Một số điểm mới của Quy tắc Rotterdam 61
3.3.3. Một số khuyến nghị về sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 64
PHẦN KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Quy tắc Hague: Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên quan đến vận đơn đường biển, ký kết tại Brussels ngày 25/8/1924.
Quy tắc Visby: Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển.
Quy tắc Hague-Visby: Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên quan đến vận đơn đường biển và các nghị định thư bổ sung
Quy tắc Hamburg: Công ước Liên hiệp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, kí kết tại Hamburg ngày 30/3/ 1978.
Quy tắc Rotterdam: Công ước Liên hiệp quốc về Hợp đồng vận chuyển hàng hóa một phần hoặc toàn bộ bằng đường biển, kí tại Rotterdam ngày 23/9/2009.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong vận chuyển hàng hóa quốc tế hiện nay, khối lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển ngày càng chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các phương tiện còn lại. Vận chuyển hàng hóa bằng đường biển có lợi thế rất lớn là do giá thành rẻ, vận chuyển hàng đa trường, đa trọng, nhưng cũng có hạn chế tốc độ vận chuyển chậm. Phương thức vận chuyển đường biển ngày càng được hiện đại hóa cao hơn và là một phương thức chủ đạo trong vận chuyển đa phương thức.
Hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta được vận chuyển bằng đường biển chiếm hơn 90%. Điều này chứng tỏ vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở nước ta có một vị thế đặc biệt. Việc nghiên cứu luật hàng hải quốc tế ở nước ta ngày nay càng trở nên cần thiết và hữu dụng khi chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương Mại thế giới và buôn bán thông thương hàng hóa giữa Việt Nam với nước ngoài ngày càng gia tăng về số lượng và chủng loại.
Khi vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ các hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển để nắm được nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Các quy định này được đề cập rõ trong Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 cũng như các công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Đề tài phân tích những quy định theo Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 và các công ước quốc tế về vận tải biển về hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, trong đó tập trung làm rõ trách nhiệm của người chuyên chở với ba nội dung chính, bao gồm cơ sở trách nhiệm, thời hạn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm. Từ đó sẽ thấy được những điểm tương đồng cũng như những nét khác biệt trong quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam (luật quốc gia) so với các điều ước quốc tế về vận tải biển (luật quốc tế) và đưa ra nhận xét những mặt ưu điểm và hạn chế của luật quốc gia so với luật quốc tế quy định về trách nhiệm của người vận chuyển. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đưa ra những đề xuất sửa đổi và bổ sung quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý ở Việt Nam, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập một trong các công ước quốc tế về vận tải biển.
Đề tài được sử dụng phương pháp phân tích các điều khoản trong bộ Luật Hàng hải Việt Nam, so sánh các quy định này với các công ước quốc tế về vận vận tải biển, sau đó tổng hợp để có những kiến nghị, đề xuất.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về luật hàng hải quốc tế.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo Luật Hàng hải Việt Nam 2005 so với các Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Chương 3: Việt Nam và việc gia nhập các Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÀNG HẢI QUỐC TẾ
1. 1. Khái niệm chung về luật hàng hải quốc tế
Sự hình thành và phát triển của luật hàng hải quốc tế gắn liền với lịch sử phát triển của ngành vận chuyển hàng hải thế giới. Luật hàng hải quốc tế luôn phát triển song hành cùng với sự phát triển của luật quốc tế. Pháp luật Việt Nam quy định về chủ quyền và các quyền đối với các vùng biển cũng như công tác quản lý biển và hoạt động hàng hải được hình thành khá sớm và khá đồng bộ. Đôi khi có một số nhầm lẫn giữa luật hàng hải quốc tế với luật biển quốc tế do hai luật này đều liên quan chặt chẽ đến biển. Nói chung, luật biển quốc tế nghiên cứu chủ yếu các vấn đề pháp lý của các vùng biển liên quan đến chủ quyền, quyền về chủ quyền và các quyền khác của các quốc gia ven biển với các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Luật hàng hải quốc tế nghiên cứu chủ yếu đến các cơ sở pháp lý hoạt động của các phương tiện giao thông di chuyển tại các vùng biển của các quốc gia cũng như quốc tế. Hiện nay trong khoa học pháp lý quốc tế, có nhiều thuật ngữ khác nhau để thể hiện hai lĩnh vực pháp luật này:
International law of the sea: luật biển quốc tế
International martime law hoặc international shipping law: luật hàng hải quốc tế
International maritime commercial law: luật thương mại hàng hải quốc tế; hay còn dùng thuật ngữ international merchant shipping law;
International maritime transportation law: luật vận chuyển hàng hải quốc tế
Các thuật ngữ trên được sử dụng rộng rãi trong pháp luật của các nước có truyền thống pháp luật hàng hải phát triển trên thế giới như Anh, Hoa Kỳ, Thụy Điển, Na uy, Pháp, Nga, Nhật, Trung Quốc, Australia.
Nhìn chung luật hàng hải quốc tế nghiên cứu chủ yếu đến các quy định pháp luật quốc tế và quốc gia dành cho các phương tiện giao thông trên biển mà đặc biển có thể nói là tàu biển. Như vậy, Luật hàng hải quốc tế điều chỉnh các quan hệ pháp luật quốc tế phát sinh từ hoạt động hàng hải quốc tế trong việc sử dụng tàu biển vào các mục đích kinh tế, thương mại, khoa học, văn hóa, thể thao, xã hội, công vụ nhà nước.
Điều này cũng đã khẳng định rõ trong điều 1, khoản 1 Luật Hàng hải Việt Nam được Quốc hội Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7 khóa XI ngày 14 tháng 6 năm 2005 và đã được Chủ tịch nước công bố ngày 27/6/2005 đã ghi nhận: “… hoạt động hàng hải bao gồm các quy định về tàu biển, thuyền bộ, cảng biển, luồng hàng hải, vận tải biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, phòng ngừa ô nhiễm môi trường và các hoạt động liên quan đến sử dụng tàu biển vào mục đích kinh tế, văn hóa, xã hội, thể thao, công vụ và khoa học.”
1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hàng hải quốc tế
Pháp luật hàng hải quốc tế điều chỉnh các quan hệ pháp luật rất phong phú phát sinh trong quá trình hoạt động vận chuyển hàng hải quốc tế mà chủ yếu là vận chuyển hành khách và hàng hóa bằng đường biển giữa các quốc gia từ cảng biển của nước này đến cảng biển của nước khác. Nhận thức này được thừa nhận chung trong pháp luật hàng hải của các nước trên thế giới.
Kế thừa và phát huy những thành quả của các thế hệ ông cha ta trước đây trong giao lưu hàng hải với các nước, tiếp thu những tiến bộ của các nước có hệ thống pháp luật hàng hải phát triển, quan điểm trên được thể hiện rất rõ trong luật hàng hải Việt Nam. Theo quy định của pháp luật hàng hải quốc tế được ghi nhận trong rất nhiều công ước quốc tế về hàng hải cũng như trong bộ luật hàng hải của Việt Nam thì hoạt động hàng hải là những hoạt động liên quan đến việc sử dụng tàu biển vào các mục đích kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, thể thao, du lịch và công vụ nhà nước di chuyển trên biển và các vùng nước cận kề liên quan với biển.
Thực chất ở đây là việc nghiên cứu chủ yếu các vấn đề pháp lý liên quan đến tàu biển trong vận chuyển quốc tế. Nó bao gồm một số quan hệ cơ bản như:
Quan hệ giữa chủ tàu, người thuê tàu, người khai thác tàu với chủ hàng, người gửi hàng, người nhận hàng;
Quan hệ của tàu biển với cảng biển, người cung cấp các dịch vụ trong cảng biển;
Các quan hệ nội bộ của các đối tượng trên;
Giải quan các tranh chấp trong vận chuyển hàng hải
Bốn lĩnh vực trên có thể nói thuộc các quan hệ dân sự, song tàu biển và các phương tiện vận tải còn phải chịu sự chi phối bắt buộc về mặt hành chính (quản lý hành chính đối với tàu biển) như đăng ký, đăng kiểm, an toàn, an ninh hàng hải, các vấn đề liên quan đến phòng và chống ô nhiễm môi trường biển…. Đây cũng là một trong những đặc thù quan trọng trong đối tượng của luật hàng hải quốc tế.
1.3. Nguồn của luật hàng hải quốc tế
Nguồn của luật hàng hải quốc tế gồm có các điều ước quốc tế, luật quốc gia và tập quán hàng hải quốc tế.
1.3.1. Điều ước quốc tế
1.3.1.1. Khái niệm điều ước quốc tế
Trong các quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là các nước khu vực Đông Nam Á thì điều ước quốc tế là nguồn của Tư pháp quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng và mang ý nghĩa thiết thực. Đây là các điều ước quốc tế về thương mại và hàng hải quốc tế; Các hiệp định về trao đổi hàng hóa và thanh toán, Hiệp định về tương trợ tư pháp dân sự; gia đình và hình sự. Vậy, chúng ta cần phải hiểu được thế nào là điều ước quốc tế.
Điều ước quốc tế là nguồn được xây dựng bằng các quy phạm, tức là nó được xây dựng bằng các quy phạm chung hoặc các quy phạm riêng. Các quy phạm đó quy định quyền và nghĩa vụ đối với các bên của điều ước quốc tế. Bản chất pháp lý của điều ước quốc tế được thể hiện ở chỗ nó thể hiện sự dung hòa về ý chí, về lợi ích, về các quan điểm của các quốc gia hoạc các chủ thể khác của luật pháp quốc tế. Điều ước quốc tế đã tạo thành cơ sở pháp lý cho các quan hệ pháp lý quốc tế. Như vậy, “điều ước quốc tế là thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế, trong đó việc ký kết, hiệu lực và chấm dứt hiệu lực của nó được điều chỉnh bằng luật quốc tế.” [9; 4]
1.3.1.2. Tên gọi của điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó.
Điều ước quốc tế là tên khoa học pháp lý chung để chỉ các văn bản pháp luật quốc tế do hai hay nhiều chủ thể luật quốc tế ký kết. Trong từng quan hệ điều ước cụ thể, điều ước có thể được gọi bằng rất nhiều tên gọi khác nhau như hiệp ước, hiệp định, công ước, hiến chương, quy chế.
Luật điều ước quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều không có những quy định cụ thể nhằm ấn định rõ tên gọi cho từng loại điều ước. Trong thực tiễn, có những điều ước có cùng nội dung và tính chất nhưng giữa các văn bản điều ước này lại có thể có tên gọi khác nhau. Việc xác định tên gọi cụ thể cho một điều ước hoàn toàn do các chủ thể ký điều ước đó thỏa thuận quyết định.
1.3.1.3. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải
Điều ước quốc tế vừa là phương tiện, vừa là công cụ quan trọng điều chỉnh các quan hệ pháp lý quốc tế. Trong lý luận và thực tiễn của khoa học pháp lý quốc tế, điều ước quốc tế là nguồn cơ bản của công ước quốc tế và cũng là nguồn quan trọng của tư pháp quốc tế và trong lĩnh vực luật hàng hải quốc tế nó có một vị trí đặc biệt. Vị trí đặc biệt này thể hiện ở chỗ:
- Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế chứa đựng hầu hết các nguyên tắc và quy phạm pháp luật được thỏa thuận của các quốc gia trên thế giới ở quy mô toàn cầu, khu vực và song phương; các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật về hàng hải quốc tế này ngày càng được bổ sung và hoàn thiện như những mực thước quy chuẩn để mọi chủ thể tham gia hoạt động hàng hải phải tuân thủ tuyệt đối;
- Có thể nói là số lượng các điều ước trong lĩnh vực hàng hải quốc tế là rất nhiều so với các lĩnh vực khác và nó có đặc điểm là liên quan chặt chẽ đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như luật thương mại quốc tế, luật bảo hiểm quốc tế, luật môi trường quốc tế, luật hành chính và hình sự quốc tế.
- Một số lượng không nhỏ các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải quốc tế có mục tiêu thống nhất pháp luật hàng hải của các quốc gia và chúng thường được áp dụng trực tiếp cho mọi hoạt động, duy trì và thông thương hàng hải quốc tế bình thường;
- Các điều ước trong lĩnh vực hàng hải có tác động và ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng pháp luật hàng hải của các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển;
Ở Việt Nam, việc tham gia các điều ước quốc tế là một việc hệ trọng trong công tác xây dựng pháp luật và được nhà nước đặc biệt quan tâm. Năm 2005, Quốc hội CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế thay thế cho Pháp luật 1998. Đồng thời với việc ban hành pháp luật chúng ta cũng tham gia các Công ước về Luật điều ước quốc tế như Công ước Viên 1969 vào năm 2001 có hiệu lực đối với Việt Nam. Việc ban hành luật cũng như tham gia các công ước chứng tỏ Việt Nam rất coi trọng việc tham gia các điều ước và tuân thủ thực hiện các cam kết được ghi nhận trong đó. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải quốc tế thường là các điều ước thành lập các tổ chức, các hiệp hội hoặc các liên đoàn vận chuyển đường biển quốc tế; sau đó trong khuôn khổ của các tổ chức này có thể kí kết hoặc ban hành hàng loạt các văn bản pháp lý quốc tế về hoạt động hàng hải giữa các quốc gia thành viên và giữa tổ chức với các quốc gia nhằm tạo hành lang pháp luật thống nhất cho các công tác hoạt động hàng hải hữu hiệu phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế ngoại thương của các nước. Sau đây là một số điều ước quốc tế về hàng hải quan trọng:
* Các công ước của Liên hợp quốc (LHQ), các ủy ban hay hiệp hội của LHQ
- Của Liên hợp quốc
+ Công ước của LHQ về luật biển 1982 (UNCLOS – 82)
Của Ủy ban Hàng hải quốc tế (CMI)
+ Dự thảo các quy tắc về đánh giá tổn thất trong các vụ va đâm hàng hải hải (Quy tắc Lisbon – 1988);
+ Các quy tắc thống nhất của CMI về vận đơn đường biển 1990 (CMI – Uniform rules for Sea WAYBILLS, 1990);
+ Các quy tắc của CMI về vận đơn điện tử - 1990 (CMI – Rules for Electronic Bills of lading, 1990);
+ Quy tắc York – Antwerp, 1994 (York – Antwerp Rules – 1994);
+ Nguyên tắc hướng dẫn của các Hiệp hội phân cấp tàu biển – 1998 (POCFS – 1998)
Các quy tắc của UNCITRAL (của LHQ)
+ Công ước của LHQ về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển (Hamburg Rules – 1978)
+ Công ước của LHQ về vận chuyển hàng hóa bằng vận tải đa phương thức – 1980 (UN Convention on Multimodal Transport of Goods 1980);
+ Công ước của LHQ về trách nhiệm của người khai thác cầu bến vận tải trong thương mại quốc tế - 1991;
Các quy tắc của UNCTAD (của LHQ)
+ Công ước về Bộ luật hướng dẫn đối với Hiệp hội tàu chợ - 1974;
+ Công ước của LHQ về điều kiện đăng ký tàu biển – 1986;
+ Công ước của LHQ về cầm cố, thế chấp hàng hải 1993.
Các công ước trong khuôn khổ Tổ chức Hàng hải Quốc tế
+ Công ước về Tổ chức Hàng hải Quốc tế, 1948 (IMO Convention)
+ Công ước về tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế - 1995 (FAL Convention 1965);
+ Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với tổn thất ô nhiễm dầu – 1969 (CLC Convention 1969)
+ Công ước quốc tế liên quan đến sự can thiệp trên biển cả trong trường hợp tai nạn gây ra ô nhiễm dầu – 1969 (Intervetion 1969);
+ Công ước về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực vận chuyển hạt nhân bằng đường biển – 1971;
+ Công ước quốc tế về thành lập quỹ quốc tế bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu – 1971;
+ Quy tắc phòng ngừa va chạm tàu thuyền trên biển – 1972;
+ Công ước quốc tế về công-te-nơ (Containers) an toàn – 1972
+ Công ước Athen về vận chuyển hành khách và hành lý bằng đường biển – 1974;
+ Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm đối với khiếu nại hàng hải – 1976;
+ Công ước về Tổ chức vệ tinh hàng hải quốc tế - 1979;
Công ước về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải – 1988;
+ Công ước quốc tế về cứu hộ - 1989;
+ Công ước quốc tế về sẵn sàng, ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu – 1990;
+ Công ước quốc tế về cầm giữ và cầm cố hàng hải – 1993;
+ Bộ luật quản lý an toàn hàng hải quốc tế - 1994 (International Safety Mangament Code – “ISM Code” – 1994;
+ Công ước quốc tế về trách nhiệm và bồi thường tổn thất đối với vận chuyển chất nguy hiểm, độc hại bằng đường biển – 1996 (HNS Convention 1996);
+ Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển – 1999 (International Convention on Arrest of Ships, 1999);
Các công ước quốc tế của Hội đồng hàng hải quốc tế (BRUSSELS)
Các công ước của hội đồng hàng hải quốc tế ra đời sớm so với các công ước ký kết trong khuôn khổ của LHQ và IMO, có thể nói nó là các quy định tiền thân cho các công ước sau nó. Có thể kể đến một số công ước sau đây:
+ Công ước thống nhất các quy tắc liên quan đến đâm va và giữa các tàu – 1910;
+ Công ước về thống nhất các quy tắc liên quan đến trợ giúp và cứu hộ trên biển – 1910;
+ Công ước về thống nhất các quy tắc liên quan đến giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu tàu biển – 1924 (cùng Nghị định thư kèm theo);
+ Công ước về thống nhất các quy tắc chung của pháp luật liên quan đến vận đơn và nghị định thư đã ký – 1924 (La Hague Rules);
+ Công ước quốc tế về việc thống nhất các quy tắc chung liên quan đến cầm giữ và thế chấp tàu biển – 1926 (và Nghị định thư kèm theo);
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến quyền tài phán hình sự đối với các vấn đề đam va hoặc các tai nạn hàng hải khác – 1952;
+ Công ước quốc tế về các quy định liên quan đến quyền tài phán dân sự về các vấn đề trong các vụ va chạm tàu thuyền – 1952;
+ Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển – 1952;
+ Công ước quốc tế liên quan đến giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu tàu biển (và Nghị định thư kèm theo) – 1957;
+ Công ước quốc tế liên quan đến hành khách đi tàu trốn vé – 1957;
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến vận chuyển hành khách bằng đường biển – 1961;
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến vận chuyển hành lý bằng đường biển – 1967;
+ C