Tình trạng Đại suy thoái thập niên 1930 đã phủ nhận sự tiên đoán của lý 
thuyết cổ điển vì không giải thích thỏa đáng về thực trạng của cuộc khủng 
hoảng kinh tế. Trước thực trạng đó, J.M Keynes - kinh tế gia người Anh, cung 
cấp lý thuyết mới với sự xuất bản của tác phẩm: Lý thuyết Tổng quát về Nhân 
dụng, lãi suất và tiền tệ năm 1936, tác phẩm được coi như đã đặt nền tảng 
cho kinh tế vĩ mô hiện đại (một năm sau khi Lý thuyết Tổng quát xuất bản, J.R 
Hicks (1937) xuất bản một bài khảo luận trong đó mô hình IS-LM được phát 
triển để giải thích mô hình Keynessian).
Ý tưởng căn bản của lý thuyết Tổng quát là trong ngắn hạn tổng cầu xác 
định sản lượng và tình trạng kinh tế khủng hoảng là hậu quả của sự thiếu hụt 
của tổng cầu – tổng cầu thật sự không đủ để hỗ trợ sản lượng toàn dụng. 
Lúc đó chính sách kích cầu là phương thuốc thích ứng để phục hồi nhân 
dụng và sản lượng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3076 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tác động của gói kích thích kinh tế năm 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 CƠ SỞ CỦA GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ
Tình trạng Đại suy thoái thập niên 1930 đã phủ nhận sự tiên đoán của lý 
thuyết cổ điển vì không giải thích thỏa đáng về thực trạng của cuộc khủng 
hoảng kinh tế. Trước thực trạng đó, J.M Keynes - kinh tế gia người Anh, cung 
cấp lý thuyết mới với sự xuất bản của tác phẩm: Lý thuyết Tổng quát về Nhân 
dụng, lãi suất và tiền tệ năm 1936, tác phẩm được coi như đã đặt nền tảng 
cho kinh tế vĩ mô hiện đại (một năm sau khi Lý thuyết Tổng quát xuất bản, J.R 
Hicks (1937) xuất bản một bài khảo luận trong đó mô hình IS-LM được phát 
triển để giải thích mô hình Keynessian).
Ý tưởng căn bản của lý thuyết Tổng quát là trong ngắn hạn tổng cầu xác 
định sản lượng và tình trạng kinh tế khủng hoảng là hậu quả của sự thiếu hụt 
của tổng cầu – tổng cầu thật sự không đủ để hỗ trợ sản lượng toàn dụng. 
Lúc đó chính sách kích cầu là phương thuốc thích ứng để phục hồi nhân 
dụng và sản lượng.
Sản lượng quốc gia được đo lường bằng tổng giá trị sản phẩm quốc nội 
(GDP) theo biểu thức:
GDP C I G NX= + + +
Trong đó:
C là chi tiêu khu vực hộ gia đình
I là đầu tư khu vực tư nhân
G là tiêu dùng của chính phủ
NX là xuất khẩu thuần (Xuất khẩu – nhập khẩu) 
Gói kích thích kinh tế nhằm kích cầu chi tiêu khu vực hộ gia đình (C) và đầu tư 
tư nhân (I), nhờ đó duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, hạn chế suy thoái kinh tế, 
thể hiện qua đẳng thức sau:
w w w wGDP C C I I G G NX NXg g g g g= + + +
Trong đó: 
, , ,C I G NXw w w w lần lượt là tỷ trọng của C, I, G và NX trong GDP.
, , ,C I G NXg g g g lần lượt là tốc độ tăng của C, I, G, NX trong GDP. 
 w ,w ,w ,wC C I I G G NX NXg g g g lần lượt là góp phần thay đổi GDP của 
C, I, G và NX.
Phân Tích Tác Động Của
 Gói Kích Thích Kinh Tế 
Năm 2009
ThS. Huỳnh Thanh Điền (*)
Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu diễn ra vào cuối năm 2007, hậu quả của nó kéo dài đến nay và đang có những dấu hiệu phục hồi nhờ sự nỗ lực liên minh giữa các quốc gia và chính sách kích cầu của của 
từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bài viết này dựa trên số liệu kinh tế vĩ 
mô của các quốc gia trên thế giới và Việt Nam qua hai thời kỳ là 6 tháng đầu 
năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 để phân tích diễn biến các cuộc suy thoái 
kinh tế và phân tích tác động của gói kinh thích kinh tế Việt Nam.
Khoa học & Ứng dụng26 Số 10 - 2009
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG GÓI KÍCH CẦU TẠI MỘT 
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Nền kinh tế của một số nước lớn trên thế giới từ đầu năm 
2009 đến nay đang lâm vào hoàn cảnh suy thoái nghiêm 
trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm và thất nghiệp đang 
ở mức cao. Chẳng hạn như nền kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 
gần 8% từ tháng 11/2008 đến 05/2009, thất nghiệp vẫn tăng 
trên mức 9%, thị trường bất động sản có dấu hiệu chạm đáy; 
nền kinh tế EURO tăng trưởng âm gần 5% từ 11/2008 đến 
tháng 05/2009, thất nghiệp vượt mức 9%; nền kinh tế Nhật 
Bản vẫn tăng trưởng âm hơn 9% trong tháng 3/2009 và thất 
nghiệp vẫn vượt trên mức 5% (Nguồn: Vũ Thành Tự Anh, 
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, 7/2009).
Trước thực trạng đó, các quốc gia liên minh lại để tìm ra 
giải pháp ngăn chặn cuộc đại suy thoái trên toàn cầu bằng 
các chính sách kích cầu tiêu dùng và đầu tư ngay cả trong 
tình trạng thâm hụt ngân sách đang ở mức cao.
Gói kích cầu chủ yếu đổ vào khu vực chi tiêu hộ gia đình 
(C) và đầu tư tư nhân (I). Với các chính sách kích cầu có sự 
phối hợp nhịp nhàng giữa các nước đã bước đầu tác động 
có hiệu quả đến niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và 
hộ gia đình.
BỐI CẢNH ÁP DỤNG GÓI KÍCH THÍCH KINH TẾ TẠI 
VIỆT NAM
Gói kích cầu được triển khai trong tình trạng tốc độ tăng 
trưởng giá trị sản xuất trong cả ba khu vực đều giảm. So với 
6 tháng đầu năm 2008, tộc độ tăng trưởng giá trị sản xuất 
của 6 tháng đầu năm 2009 của khu vực 1 là 2,5% (giảm gần 
một nửa so với cùng kỳ năm trước), khu vực 2 là 5% (giảm 2/3 
so với cùng kỳ năm trước) và khu vực 3 là 20% giảm 1/3 so với 
cùng kỳ năm trước). 
Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của 6 tháng đầu năm 
2009 cũng giảm, nhưng đối với khu vực 2 - ngành xây dựng 
vẫn tăng về giá trị gia tăng lớn hơn cùng kỳ năm trước (Bảng 
2). Điều này được giải thích là do chính sách kích cầu ứng 
trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp 
bách khoảng 37.200 tỷ đồng.
Tốc độ tăng trưởng trong xuất khẩu và nhập khẩu của 
6 tháng đầu năm 2009 đều giảm so với cùng kỳ năm trước, 
cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Tuy nhiên, trong gói kích 
cầu vẫn không thấy có sự quan tâm nào để hỗ trợ xuất khẩu 
nhằm cải thiện cán cân thương mại.
Từ khi gói kích thích kinh tế được công bố, lòng 
tin của người dân có dấu hiệu phục hồi, thể hiện 
qua việc thị trường chứng khoán và thị trường 
bất động sản đang ấm dần lên. Tỷ giá USD/VNĐ 
đang tăng cao theo hướng có lợi cho xuất khẩu.
Cơn bão lạm phát vừa được kìm hãm bằng 
chính sách tiền tệ thắt chặt, với chính sách này đã 
dẫn đến hệ quả là sản xuất bị đình trệ và suy thoái 
trong năm 2008. Tuy nhiên, dù lạm phát được kìm 
hãm nhưng vẫn còn những rủi ro tiềm tàng, có 
nguy cơ sẽ quay trở lại nếu Chính phủ áp dụng 
lại chính sách tiền tệ mở rộng để kích thích nền 
kinh tế. Do vậy, để thoát khỏi tình trạng suy thoái, 
giải pháp tối ưu hiện nay là chính sách tài khóa mở 
rộng thông qua gói kích cầu. Vấn đề là gói kích 
cầu này sẽ được sử dụng như thế nào?
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
10
Thâm hụt ngân sách (%GDP) Gói kích cầu (%GDP)
Ấ
n 
Đ
ộ
P
há
p
A
nh
N
ga
N
h
ật
 B
ản
In
do
ne
si
a
H
àn
 Q
u
ốc
Đ ứ
c
Tr
un
g 
Q
u
ốc
M ỹ
V
i
ệt
 N
am
Bảng 1: Cân bằng ngân sách (%GDP) và gói kích cầu (%GDP) tại một số nước
Nhật 
Bản
Indo-
nesia
Ấn Độ Pháp Anh Nga Hàn 
Quốc
Đức Trung 
Quốc
Mỹ Việt 
Nam
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng (%) giá trị gia tăng 
của 3 khu vực trong nền kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Khoa học & Ứng dụng 27Số 10 - 2009
  C I G NX GDP
Tỷ trọng trong GDP (w) 66.0% 41.5% 6.0% -13.5% 100.0%
Tốc độ tăng trưởng (g) -3.5% -14.0% 6.5% -86.0% 3.9%
Góp phần thay đổi GDP (w.g) - 2.3% -5.8% 0.4% 11.6% 3.9%
THẢO LUẬN VỀ CÁCH SỬ DỤNG GÓI 
KÍCH CẦU TẠI VIỆT NAM
Nhìn vào cơ cấu GDP của Việt Nam trong 6 
tháng đầu năm 2008, dễ thấy hai khu vực chi tiêu 
hộ gia đình và đầu tư khu vực tư nhân có tỷ trọng 
đóng góp lớn trong GDP, trong khi xuất khẩu 
thuần (NX) do thâm hụt cán cân thương mại nên 
đóng vào tỷ trọng GDP là âm 13,5%. Tuy nhiên, 
do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn 
cầu, tốc độ tăng tăng trưởng của hai thành phần 
trong GDP là chi tiêu hộ gia đình (gC) và đầu tư tư 
nhân (gI) bị âm, dẫn đến tình trạng suy giảm kinh 
tế. 
Gói kích thích kinh tế nhằm hỗ trợ cho chi tiêu 
khu vực hộ gia đình và đầu tư tư nhân (tăng tốc 
độ tăng trưởng gC và gI) nhằm hướng đến các 
chương trình hỗ trợ tiêu dùng, đầu tư trong các lĩnh vực 
tạo ra việc làm, khuyến khích xuất khẩu để cải thiện cán 
cân thương mại nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, 
giảm suy giảm kinh tế.
Ngày 12/5/2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công 
bố chính thức về gói kích cầu có giá trị 140.000 tỷ đồng 
của Chính phủ. Theo đó, gói kích cầu tương đương 8 tỷ 
USD được chia thành 7 phần có các giá trị khác nhau. Cụ 
thể các phần của gói kích cầu này bao gồm: (1) hỗ trợ 
lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng; (2) tạm 
thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 
3.400 tỷ đồng; (3) ứng trước ngân sách nhà nước để thực 
hiện một số dự án cấp bách khoảng 37.200 tỷ đồng; (4) 
chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 
2009 khoảng 30.200 tỷ đồng; (5) thực hiện chính sách 
giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng; (6) tăng thêm dư nợ 
bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ 
đồng; (7) các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn 
suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội khoảng 7.200 
tỷ đồng.
Nếu phân chia lại cơ cấu của gói kích cầu thì có đến 
51% là chi tiêu trực tiếp vào các dự án xây dựng công 
trình cấp thiết quốc gia đang trong giai đoạn triển khai. 
Điều này cho thấy nỗ lực của Chính phủ trong việc triển 
khai các dự án dở dang, có liên quan đến phát triển cơ sở 
hạ tầng nhằm để tạo sự thuận tiện trong kết nối của các 
hoạt động kinh tế trong nước. Hầu hết các công trình 
này chủ yếu đang được triển khai ở khu vực công, trong 
khi thực tế khu vực này (chi tiêu của Chính phủ) chỉ đóng 
góp 6% trong cơ cấu GDP của Việt Nam.
Khu vực tư nhân được nhận hỗ trợ là 24% thông qua 
kênh tín dụng hỗ trợ lãi vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng 
vay vốn trong khi khu vực này chiếm đến 44% trong cơ 
cấu GDP. Chính sách này triển khai sẽ gặp phải hai vấn 
đề: một là hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 
thuộc ngành nào? Có quan tâm đến vấn đề hỗ trợ các 
hoạt động đầu tư nhằm cải thiện cán cân thương mại 
không? Hai là quản lý việc giải ngân như thế nào? Cả 
hai vấn đề trên đều tiềm ẩn nguy cơ tiêu cực trong giải 
ngân, sẽ gây hiệu ứng ngược nếu không quản lý được 
Bảng 3: Tăng trưởng trong xuất khẩu và nhập khẩu và cán cân thương mại (%GDP)
Bảng 4: Tỷ giá USD/VNĐ
Bảng 5: Cơ cấu GDP của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2009 so với 6 tháng đầu năm 2008
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Nguồn: Vũ Thành Tự Anh, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (7/2009)
Nguồn: Vũ Thành Tự Anh, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (7/2009)
Khoa học & Ứng dụng28 Số 10 - 2009
Cơ cấu sử dụng gói kích cầu (%)
Chi thông qua tín 
dụng
24%Giảm thuế
20%
Chi cho An sinh 
xã hội
5%
Chi trực tiếp vào 
xây dựng và dự 
án cấp thiết
51%
những tiêu cực đó. Mặt khác, 
kích thích đầu tư thông qua 
mở rộng kênh tín dụng sẽ đe 
dọa lạm phát trở lại. Để hạn 
chế điều này, Chính phủ cũng 
công bố sẽ phát hành 20.000 
tỷ đồng trái phiếu Chính phủ 
để thu hút lượng tiền mặt lưu 
thông tài trợ cho thâm hụt 
ngân sách. 
Có đến 20% giá trị gói kích 
cầu được thực hiện thông 
qua việc cắt giảm thuế trong 
khi Việt Nam không mở rộng 
đối tượng chịu thuế, nghĩa 
là số nhân kích thích tăng 
trưởng thông qua thuế là 
rất nhỏ ở Việt Nam. Do vậy, 
chính sách cắt giảm thuế sẽ 
không mang lại nhiều kết quả. 
Chỉ có khoảng 5% gói kích cầu là nhằm vào kích thích 
chi tiêu khu vực hộ gia đình, các dự án an sinh xã hội với 
giá trị 7.200 tỷ đồng (số tiền này hiện đang định hướng sử 
dụng cho việc hỗ trợ nhà ở cho người có thu nhập thấp 
và ký túc xá cho sinh viên tại các trường đại học) trong khi 
khu vực chi tiêu hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn trong cơ 
cấu GDP của Việt Nam (66% GDP).
Nhìn chung, gói kích cầu có tác dụng phục hồi lại niềm 
tin của khu vực hộ gia đình và doanh nghiệp về triển vọng 
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, xét về cơ 
cấu của gói kích cầu thì vẫn chưa có sự hợp lý: thứ nhất 
là khu vực chi tiêu hộ gia đình (C) chiếm 66% trong GDP 
nhưng chỉ nhận được khoảng 5% trực tiếp từ gói kích cầu 
và phải tăng khoản tiết kiệm để mua trái phiếu Chính 
phủ từ thu nhập khả dụng; thứ hai là khu vực đầu tư tư 
nhân chiếm 44% trong cơ cấu GDP nhưng chỉ nhận được 
24% từ gói kích cầu thông qua kênh hỗ trợ và bảo lãnh 
tín dụng có nhiều khả năng thất thoát nếu không quản 
lý chặt khâu giải ngân; thứ ba là vấn đề thâm hụt cán cân 
thương mại chưa được đề cập trong gói kích cầu.
KIẾN NGHỊ
Nền kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng 
thâm hụt ngân sách (gần 8% GDP), thâm hụt cán 
cân thương mại (gần 13%GDP) và những đe dọa 
của lạm phát (vẫn hơn 8% trong tháng 7 năm 
2009). Xuất phát điểm của cuộc khủng hoảng là 
lạm phát trong năm 2008 và giải pháp được đề 
xuất tạm thời là chính sách thắt chặt tiền tệ để 
kìm hãm lạm phát. Tuy nhiên, hậu quả của chính 
sách này là dẫn đến tình trạng đình trệ trong sản 
xuất. Đến nay, lạm phát được kìm hãm thì bài toán 
đặt ra trong lúc này là các chính sách nhằm kích 
thích tăng trưởng kinh tế là rất cần thiết.
Gói kích cầu là một giải pháp tập trung vào 
kích thích chi tiêu khu vực tiêu dùng (C) và đầu 
tư tư nhân (I) vì đây là hai thành phần đóng góp 
tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP, trong khi cán cân 
thương mại vẫn đang còn âm (NX<0). Đặc biệt là 
phải quan tâm đến cách phân bổ gói kích cầu vào 
khu vực sản xuất các mặt hàng hướng đến xuất 
khẩu và từng bước hạ giá Việt Nam đồng hợp lý 
để hướng đến xuất khẩu nhằm cải thiện các cân 
thương mại (NX).
Các khoản chi tiêu trong gói 
kích cầu nên tập trung vào các 
chương trình an sinh xã hội, các 
ngành thâm dụng lao động, cơ sở 
hạ tầng phục vụ nông nghiệp và 
đời sống nông dân, các công trình 
đóng vai trò then chốt của quốc 
gia. Các khoản chi này nhằm tạo 
ra nhiều việc làm để giải quyết bài 
toán thất nghiệp và tạo ra các mối 
nối trong nền kinh tế, thuận tiện 
trong việc phát triển kinh tế liên 
ngành và liên địa phương.
Xác định quy mô gói kích cầu 
vừa phải để đảm bảo thâm hụt 
ngân sách có thể chấp nhận được. 
Khi áp dụng gói kích cầu, chắc 
chắn sẽ dẫn đến tình trạng thâm 
hụt ngân sách. Không nên tài trợ cho thâm hụt ngân sách 
bằng cách in thêm tiền (sẽ dẫn đến lạm phát), không 
nên phát hành trái phiếu USD (vì dẫn đến nợ nước ngoài 
quá lớn trong khi đồng tiền trong nước đang giảm so với 
đồng USD) mà nên sử dụng kênh vay trong nước để tài 
trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách.
Chính sách tài khóa mở rộng không thể thực hiện 
được bằng cách cắt giảm thuế như mục tiêu thứ (6) trong 
gói kích cầu, vì Việt Nam không có mở rộng đối tượng 
chịu thuế. Mục tiêu cắt giảm thuế sẽ không có tác động 
tích cực đến sự phục hồi nền kinh tế mà trái lại chỉ làm cho 
thâm hụt ngân sách trở nên nghiêm trọng hơn.
Thể chế hóa quyền sở hữu tài sản sâu rộng trong 
dân chúng và từng bước hình thành các thị trường tài sản 
để chuyển các loại “vốn chết” thành “vốn sống” thông 
qua việc xác lập quyền sở hữu tài sản. Có như vậy mới có 
thể tạo vốn từ dân chúng và kích thích đầu tư khu vực tư 
nhân.
(*): Giảng viên Khoa Quản trị kinh doanh 
 Trường ĐH Tôn Đức Thắng
Khoa học & Ứng dụng 29Số 10 - 2009