Trong không khí cả nước tưng bừng chào mừng ngày Phụ Nữ Việt Nam – 20/10/2008, những suy nghĩ, cảm xúc về những người phụ nữ bỗng trỗi dậy trong tôi. Cảm xúc ấy càng trở nên mạnh mẽ kể từ lúc tôi đặt chân tới Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh số 28 đường Võ Văn Tần, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
Lần đầu tiên đặt chân tới Bảo Tàng, tôi không giấu được tâm lý tò mò. Đưa mắt quan sát tổng thể tất cả quang cảnh Bảo Tàng. Choáng ngợp trước những hiện vật mà chiến tranh đã để lại cho đến ngày nay với những chiếc máy bay, xe tăng, đạn pháo đồ sộ, hiện đại
Tất cả như thầm nhắc cho chúng ta biết về quy mô cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của cha anh ta ngày trước!
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2863 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phụ nữ với chiến tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA SINH HỌC
NGÀNH SINH HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BÀI THU HOẠCH
GVHD: Ths NGÔ THỊ KIM LIÊN
SVTH : Hồ Thị Kim Lan
MSSV : 0515283
LỚP : 06SH
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 10 năm 2008
“Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Đó ắt hẳn là tâm niệm, là truyền thống lâu đời của nhân dân Việt Nam! Em cũng không là trường hợp ngoại lệ. Để có được bài viết này, em không thể không nhắc đến sự giúp đỡ tận tình của Thạc sĩ Ngô Thị Kim Liên, đã cho chúng em tiếp cận với những tư tưởng, những kiến thức từ Bộ môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, từ đó gợi mở trong chúng em nhiều hướng suy nghĩ khác nhau về lịch sử và vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc! Thông qua việc hướng dẫn đề tài của Cô, chúng em đã có những hướng tiếp cận khác nhau sau khi được đi tham quan Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh! Từ đó mỗi người đã có một bài cảm nhận thật sâu sắc về những Chứng Tích oai hùng từ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Đồng thời cũng xin gởi lời cám ơn sâu sắc đến Ban lãnh đạo và cán bộ hướng dẫn tham quan của Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo điều kiện cho sinh viên được tham quan và tiếp cận tất cả những vấn đề liên quan để có thể thực hiện tốt bài viết này!
Và thật thiếu sót nếu như chúng ta không nhắc đến công lao của các anh hùng đã có công giữ nước, chiến đấu tới tận hơi thở cuối cùng để giành độc lập ấm no cho dân tộc, để ngày hôm nay chúng ta được sống trong thế giới hoà bình. Họ đã để lại một quá khứ anh hùng, để ngày hôm nay mỗi khi nhìn lại những chứng tích ấy, chúng ta cũng không khỏi xúc động và tự hào!
Xin trân trọng cảm ơn!!!
Nội dung chính
Đề tài “Phụ nữ với chiến tranh”.
Tổng quan về Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh.
Những cảm xúc và ghi nhận những sự kiện khi quan sát những hình ảnh của người phụ nữ
Vai trò của người phụ nữ trong chiến tranh
Những phụ nữ trực tiếp tham gia phục vụ cách mạng trong tiền tuyến
Gương Cách mạng
Cảnh giam giữ và tra tấn những người phụ nữ cách mạng
Những thương tổn về thể xác và tâm hồn
Chất độc màu da cam đã gây hậu quả lớn lên nhân dân nói chung, người phụ nữ nói riêng
Những gì còn sót lại sau chất độc màu da cam
Chiến tranh gây mất mát cho cả hai bên - nước gây chiến và nước bị gây chiến
Một số tranh triễn lãm của các thiếu nhi về hoà bình và chiến tranh
Quay lại với hình tượng đẹp đẽ của người phụ nữ trong chiến tranh - những áp phích, tranh, sách…
Cảm nghĩ chung sau buổi tham quan Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh
Nội Dung Bài Cảm Nhận
Trong không khí cả nước tưng bừng chào mừng ngày Phụ Nữ Việt Nam – 20/10/2008, những suy nghĩ, cảm xúc về những người phụ nữ bỗng trỗi dậy trong tôi. Cảm xúc ấy càng trở nên mạnh mẽ kể từ lúc tôi đặt chân tới Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh số 28 đường Võ Văn Tần, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
Lần đầu tiên đặt chân tới Bảo Tàng, tôi không giấu được tâm lý tò mò. Đưa mắt quan sát tổng thể tất cả quang cảnh Bảo Tàng. Choáng ngợp trước những hiện vật mà chiến tranh đã để lại cho đến ngày nay với những chiếc máy bay, xe tăng, đạn pháo đồ sộ, hiện đại…
Tất cả như thầm nhắc cho chúng ta biết về quy mô cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của cha anh ta ngày trước!
Sau một hồi quan sát tổng quan quang cảnh bên ngoài Bảo Tàng, tôi xác định lại phương hướng và bước chân đến Sảnh chính của Bảo Tàng. Tại đây trưng bày rất nhiều hình ảnh và hiện vật của chiến tranh. Vì đã xác định trước mục tiêu buổi tham quan hôm nay là xoay quan những cảm nhận về người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh, nên sự chú ý được tập trung đến những hình ảnh và sự kiện liên quan đến các bà, các chị và các mẹ… Tất nhiên tôi không bỏ qua việc quan sát và cảm nhận về những hình ảnh sự kiện khác, nhưng tôi thực sự rất xúc động và có đôi nét phải chua xót, ngậm ngùi khi phải nhìn những hình ảnh như hiện diện trước mắt. Xin được trích dẫn một số hình ảnh theo thứ tự tôi quan sát để mọi người cùng hình dung ra những cảm nhận tôi sắp chia sẻ dưới đây.
(1) (2) (3) (4)
Chưa cần đề cập đến nội dung hình ảnh thì mọi người ai cũng nhận ra rừng đằng sau những tấm hình ấy không hề có lấy một nụ cười. Từ trẻ thơ đến người mẹ, và rồi đến người bà…tất cả đều ẩn chứa nỗi đau xót tự tận cõi lòng! Em bé gái không có một thưở ấu thơ hạnh phúc trong mái ấm vun đầy tình yêu thương đầy đủ của cha mẹ, đổi lại tuổi thơ của em là những nỗi khiếp sợ luôn thường trực trên ánh mắt ngây thơ của em! Cha của em bé trong ảnh (1) bị lính Mỹ bắt và em đã hốt hoảng kêu than “Đừng giết cha tôi!” Người vợ bồng các con trên tay mà không có lấy sự đùm bọc của người chồng, với một vẻ mặt lo âu không lối thoát. Tiếp đến là hình ảnh của những người phụ nữ lớn tuổi và trẻ em, nhìn ánh mắt họ, chúng ta như nhìn thấy được nỗi thất vọng trộn lẫn sự khiếp đảm của họ, dường như họ đang cố tìm lối thoát cho mình, nhưng… tất cả chỉ là vô vọng! Còn trong tấm ảnh thứ tư, người bà này đang ôm trên tay tấm di ảnh của người cha đã bị sát hại trong một trận thảm sát của lính Mỹ tại Thạnh Phong tỉnh Bến Tre đêm ngày 25/2/1969 với nỗi đau khôn xiết. Còn nỗi đau nào hơn khi chứng kiến cả cha cùng mẹ đồng thời bị giết hại tại một nơi, trong một thời điểm!!! Vậy mà bọn chúng nỡ nhẫn tâm, chỉ trong một đêm, chúng đã tàn sát dã man không biết bao nhiêu mạng người: từ người 65 tuổi, 62 tuổi, rồi cả các chị đang có thai, các em từ 3-15 tuổi chiếm số lượng rất lớn, và kể cả em bé mới chỉ 5 tháng tuổi… Chúng không cho em bé này nếm trải những năm tháng đầu đời của mình một cách trọn vẹn. Chúng đã không loại trừ một ai, đôi khi xét lại, tâm hồn chúng không bằng một loài cầm thú! Chúng nỡ tâm sát hại chính cả “đồng loại” của mình! Để rồi những gì còn lại chỉ là những “Bãi xác” và những nấm mồ!
Đứng trước một thực tế như vậy, họ không thể đứng nhìn mãi được. Tức nước thì vỡ bờ, đó là quy luật muôn đời nay. Bọn xâm lược đã dồn dân ta đến đường cùng, chị em phụ nữ cũng không thể khoanh tay đứng nhìn chồng con mình một mình ngoài trận tuyến. “Giặt đến nhà, đàn bà cũng đánh” và họ đã vùng dậy, cùng anh em chiến sĩ hoạt động cách mạng, với một tấm lòng yêu nước nồng nàn và một niềm tin sắt đá!
Nói sao cho hết công lao của người Phụ nữ trong chiến tranh. Những chiến thắng của các anh chiến sĩ ngoài mặt trận đều gắn liền với công sức và sự hy sinh của các chị, các mẹ ở hậu phương. Mái ấm mất đi một trụ cột, các chị em thay các anh làm trụ cột gia đình. Họ lao động sản xuất, ngày đêm vất vả với một ước mong sao cho đủ lương thực thực phẩm phục vụ tiền tuyến. Họ nhịn ăn, nhịn mặc, chỉ mong sao tiền tuyến được đủ đầy. Bởi họ ý thức được rằng tiến tuyến rất quan trọng và đang rất cần sự chi viện của họ!
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà” là một đặc trưng của người phụ nữ Việt nam. Họ không những chỉ chăm lo cho tiền tuyến, mà khi ở nhà, họ còn là một người con hiếu thảo chăm sóc mẹ già, họ là người mẹ hết lòng vì con, hết lòng tận tuỵ chăm sóc gia đình. Giá như chiến tranh không xảy ra, những người phụ nữ sẽ được sống trong một mái ấm cùng chồng con thật hạnh phúc, không còn cảnh ly tan, khóc thương vì sự ra đi mãi mãi của người chồng – như người phụ nữ trong bức tranh mang tên “ Chiến tranh, nước mắt và niềm đau” của em Nguyễn Hoàng Vũ, 14 tuổi, trường THCS Trần Văn Ơn, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh - được trình bày trong Bảo Tàng. Bức tranh làm cho những ai chiêm ngưỡng đều phải cảm thấy xót xa!
Khi đã cướp đi người thân yêu nhất của họ, người trụ cột duy nhất trong gia đình, thì giá như bọn địch còn chút lương tâm, để cho các chị em phụ nữ được sống yên ổn để làm tròn bổn phận của mình! Nhưng hận thay, chúng tìm mọi cách để diệt trừ đồng bào ta đến tận gốc ngọn. Những trận càn quét tang thương của chúng để lại sau lưng là cảnh nhà tan tác, là cảnh cả gia đình phải li tan, phải chết mòn chết mỏi. Và đây là những gì còn lại sau mỗi trận càn của địch…
Người phụ nữ trong hình là chị Cao Thị Lạc ở xã Kiến Hưng tỉnh Hà Tây, bị bom B52 của Mỹ giết hại ngày 21/12/1972. Cái gia đình với 4 người con, lẽ ra phải hạnh phúc lắm, thì giờ đây họ đng” tay trong tay” cùng nằm lại trên đất, không có lấy một nấm mồ! Thật xót xa thay!!!
Nói đến hình ảnh người mẹ và các con, tôi xin được nhắc lại lần nữ về bức ảnh ở trang bìa. Hy sinh đã trở thành một đức tính không thể thiếu của người phụ nữ Việt nam, đặc biệt là khi họ nắm trên tay mình sinh mạng của những người con mà mình đã mang nặng đẻ đau. Làm sao mà không đau khi phải tận mắt chứng kiến từng đứa con thơ của mình bị nhấn chìm bởi dòng nước lũ. Dòng nước bao vây, xiết chặt con người của chị, dù đã đuối sức rồi, nhưng đôi tay chị vẫn ghì chặt các con để mong cứu các con thoát qua khỏi cơn nước lũ. Có thế mới biết được ý chí của người phụ nữ Việt Nam mạnh mẽ biết dường nào!!! Quy Nhơn năm 1965
Ý chí ấy đã đưa người phụ nữ đến gần với Cách mạng. Họ không chỉ ở lại hậu phương để giúp đỡ chi viện cho tiền tuyến, mà rất nhiều chị em phụ nữ đã tham gia trực tiếp vào cách mạng. Họ hy sinh tuổi thanh xuân của mình, hy sinh luôn cả tình yêu lứa đôi của mình để dồn tâm sức vào cuộc chiến đấu vận mệnh của dân tộc.
Họ là những cô nữ thanh niên xung phong dũng cảm, là những cô gái mở đường, tiếp đạn dược. Trên chiến trường, họ còn là những bác sỹ, y tá túc trực ngày đêm chăm sóc, chữa bệnh cho thương bệnh binh. Dù trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ thế nào thì trên khuôn mặt họ vẫn rạng ngời một niềm vui…niềm vui chờ mong đến ngày chiến thắng!
Trong quá khứ đã có không biết bao gương cách mạng là các chị em phụ nữ. Ai cũng một lần được nghe nhắc đến chiến tích của vị nữ anh hùng Hai Bà Trưng, Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Thị Bưởi… những gương cách mạng tiêu biểu ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Tuổi trẻ chúng ta không ai không biết đến sự hy sinh cao cả của chị Võ Thị Sáu. Chị để lại một biểu tượng thật đẹp trong lòng mỗi người khi nghe kể về chị. Tôi còn nhớ trong một tiết học, Thạc Sĩ Ngô Thị Kim Liên đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về Cây Lê Ki Ma “trẻ mãi không già” bên cạnh ngôi mộ của chị Võ Thị Sáu ở Côn Đảo. Câu chuyện làm cho chúng tôi xúc động và tự hào. Chị Võ Thị Sáu đã ra đi, nhưng linh hồn chị còn vương mãi. Linh hồn thanh tao của chị như hoà quyện vào cây Lê Ki Ma để chúng ta mãi thấy nét thanh xuân và tuổi trẻ của chị qua cây Lê Ki ma “trẻ mãi không già”, mãi xanh tuơi như chính lứa tuổi 16 của chị ngày chị ngã xuống
Sau một khoảnh khắc lắng lòng hồi tưởng về quá khứ, tôi tiếp tục rảo bước trong Bảo Tàng. Tôi bước ra ngoài và tiến tới khu “Chuồng Cọp” - một cái tên phần nào hiện diện được những ngày tháng bị tra tấn đoạ đày của các nạn nhân của chế độ lao tù thời Ngô Đình Diệm tới Nguyễn Văn Thiệu. Mặc dù đã được dạy, được nghe nhiều nhưng tôi thực sự bàng hoàng khi nhìn những bản - biểu đồ thể hiện mạng lưới lao tù tại miền Nam Việt Nam.
Chỉ tính riêng những nhà tù thật sự lớn thì mật độ của nó cũng đã khiến ta phải choáng ngợp. Chỉ ở khu vực Sài Gòn và lân cận đã có đến 3 nhà tù lớn (kí hiệu màu đỏ), hàng chục nhà tù quy mô vừ và đến hàng mấy chục nhà tù nhỏ. Ở trong những lao tù ấy, biết bao chiến sĩ cách mạng của dân ta đã phải chịu những cực hình, phải trải qua những tháng ngày có thể nói là còn hơn ở địa ngục. Cũng ở những nơi ấy, các nữ chiến sĩ cách mạng của chúng ta cũng phải chịu đoạ đày… Đây là nhà tù Thủ Đúc, nơi giam cầm những phụ nữ Việt Nam yêu nước tham gia hoạt động chống chính quyền Sài Gòn cũ.
Còn đây là phòng giam biệt lập ở Thủ Đức, còn được gọi là phòng kỷ luật an ninh, hay còn gọi bằng cái tên nghe rùng mình hơn nữa, đó là “Hoả lò”, bởi lẽ cái phòng giam ấy quá chật chội, nóng bức; chật chội đến nỗi các nữ tù nhân phải thay nhau ra của đứng để hít thở khí trời.
Với một tuổi trẻ phơi phới sức xuân, lẽ ra họ được tự do để thực hiện những hoài bão, ước mơ của mình…thì giờ đây họ phải chôn chân nơi đây, giấu sau lưng bao mơ ước, tạm gác lại tất cả để chiến đấu giành độc lập, tự do cho dân tộc. Nói sao cho hết những nỗi đau về mặt thể xác lẫn tâm hồn mà họ phải gánh chịu trong những năm tháng lao tù!
Trên đây là những tấm hình được phát hoạ lại những “biện pháp” đày đoạ dã man mà chúng đã thực hiện đối với chị em phụ nữ . Tấm ảnh đầu tiên phát hoạ là “Đòn Châm cứu” – chúng dùng kim ghút có cắm lông gà vào đầu các ngón tay của người tù đặt dưới quạt máy, mỗi nhịp thước, mỗi vòng quay của lông gà là một luống đau đớn, xoáy tận tim người tù!
Tấm ảnh tiếp theo là “Đòn tàu ngầm” - người tù bị trói chặt trên băng ghế, đầu thấp hơn chân, miệng bị bịt chặt bằng vải, đầu bị giữ chặ xuống ghế, sau đó chúng nối một ống cao su dẫn nước vào mũi tù nhân, đôi khi nước đó còn cò pha cả xà phòng hoặc vôi, đợi khi nước đã đầy bụng tù nhân, bọn cai ngục dùng chân mang giày đinh, đạp mạnh vào bụng họ để họ nôn ra cả nước và máu! Thật dã man! Bọn cai ngục còn dã man hơn loài cầm thú. Chúng nỡ đối xử như vậy với cả những chị em phụ nữ - những người vốn được coi là “chân yếu tay mêm”, thử hỏi những người “ chân yếu tay mềm” đó sẽ ra sao khi phải chịu những đòn tra tấn như vậy lên xác thịt!
Nhưng còn dã man hơn khi chúng còn dùng những thủ đoạn nhằm tra tấn mặt tinh thần của các chị em phụ nữ. Chúng thẳng tay trực tiếp đụng chạm đến những nơi quý giá nhất, thầm kín nhất của người phụ nữ. Nhằm vào tâm lý sợ rắn của chị em, chúng dùng “Đòn chơi với rắn” để tra tấn các chị làm tuyệt đường sinh đẻ. Ngoài rắn, bọn cai ngục còn dùng chai bia mẻ miệng thay vào, những mảnh chai ấy khi đã đam vào âm dạo thì không thể giải phẫu lấy ra được, vì có soi X.Quang cũng không nhìn thấy được. Có vậy mới thấy hết được sự man rợn của bọn người xâm lược này. Thử hỏi những ai đã bị tra tấn bởi đòn “chơi với rắn” này, sau khi được thả, tinh thần của họ sẽ hoảng loạn đến mức nào, có nhiều chị em đã không thoát được sự hoảng loạn ấy cho đến hết cuộc đời…
Đó là chưa tính đến những vũ khí hiện đại mà chúng dùng để tra tấn các chiến sĩ của ta.
Trên hình là chị Kiều Thị Tư và Ngô Thị Tồn – hai trong số 410 chị em yêu nước đứng ra chống chào cờ “Quốc gia” tại nhà lao- bị địch đàn áp dã man bằng lựu đạn lân tinh.
Một số chiến sĩ khác, mà theo chúng được gọi là “cứng đầu” hơn, thì được “giải quyết bằng máy chém! Ngày xưa lính Pháp dùng máy chém để kết thúc cuộc đời của chiến sĩ Việt nam…và ngày hôm nay, tại Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, một người Pháp đang nhìn lại những công cụ đàn áp của họ ngày xưa..! Tôi đứng sau chụp hình họ mà ngậm ngùi suy nghĩ, cuộc đời sao quá đỗi trái ngang!!!
Sự đàn áp dã man của chúng đã gây nên những cái chết bi thảm của các tù nhân, của các chị em phụ nữ. Thật tang thương khi nhìn đồng bào của mình phải đỏ máu, còn chúng, chắc đang phấn khởi “đếm” những “thành tích” mà chúng đã đạt được..!
Bị tra tấn, đàn áp dã man là thế, nhưng hầu hết các chiến sĩ đều đã vượt qua. Đôi lúc suy nghĩ lại, tôi thật sự không hiểu, động lực nào đã giúp cho ý chí của họ mạnh mẽ kiên cường, vượt qua tất cả như vậy. Phải chăng lòng yêu nước đã giúp họ chiến thắng mọi thử thách trong chốn lao tù, để mãi mãi kiên cường giữ lấy bí mật cách mạng, góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc ta ngày nay.
Những tưởng khi chiến tranh kết thúc thì những hậu quả của nó cũng mất theo chiến tranh. Nhưng không may thay, hậu quả chiến tranh mãi mãi trở thành nỗi ám ảnh của người dân các dân tộc bị xâm lăng. Trong cuộc chiến thảm khốc này, chúng đã rải xuống đất nước ta không biết bao nhiêu là lượng chất độc Dioxin - chất độc màu da cam!
Chúng sử dụng những phương tiện tối tân nhất để thực hiên công việc này.
Máy bay C – 123 đang phun rải chất đôc Rừng Đước ở Cà mau bị chết rụi
màu da cam do quân đội Mỹ phun chất độc
màu da cam.
Khu rừng Dương Minh Châu (tỉnh Tây Rừng Mã Đà (tỉnh Đồng Nai) trước
Ninh) trước và sau khi bị rải chất khai và sau khi bị rải chất khai quang
quang
Và hậu quả thì sao? Những mảnh rừng xanh tốt, những vùng đất đầy sự sống, tất cả chỉ cỏn là bình địa không chút sự sống!
Tại Việt nam, chất độc màu da cam cũng đã trở thành một gánh nặng rất lớn cho chị em phụ nữ. Có người trực tiếp là nạn nhân của chất độc màu da cam, chịu những thương tổn về thể chất lẫn tinh thần. Phải mang trên mình một cơ thể không trọn vẹn, họ có suy nghĩ gì..! Ắt hẳn chúng ta cũng phần nào cảm nhận được!
Chị Huỳnh Thị Thuận, sinh năm 1977, Chị Trần Thị Hương ấp 3 xã Phạm
tại thôn Đại Cát, xã Minh Phụng, huyện Văn Hai, huyện Bình Chánh, thành
Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà. phố Hồ Chí Minh.
Có thể những nỗi đau trực tiếp trên thân xác họ còn nhẹ nhàng hơn là khi họ sinh ra những người con phải chịu hậu quả từ chất độc da cam… Mỗi sinh linh bé nhỏ chào đời là niềm hạnh phúc lớn lao của các mẹ, nói sao cho hết nỗi bàng hoàng và nỗi đau khi ôm trên tay một sinh linh vừa chào đời với những thương tật trên mình vì chất độc màu da cam..?
Mấy ai không ngậm ngùi chua xót khi nhìn thi thể của các em trong dung dịch ướp xác. Các em đã bị đánh mất tuổi thơ, phải ra đi khi chưa kịp đón nhận thế giới này, và phải ra đi với những hình hài không trọn vẹn. Thử hỏi chúng ta có thử đặt mình vào vị trí là những người mẹ của các em, lúc đó chúng ta sẽ ra sao..?
Đứng lặng người nhìn hình hài các bé, tôi bỗng giật mình khi tự nhiên nhìn thấy một bé trai ngoại quốc chạy tới chỉ vào hộp xác, lắng nghe bé nói, thì bé thắc mắc với cha bé rằng - tại sao các “bạn” này ngoại hình không giống con lắm, và lại nằm trơ trong “nước” như vậy? Nghe thật xót xa!
Người cha biết nói gì hơn, chẳng lẽ đứng giải thích về tội ác ngày xưa của quốc gia mình đã gây nên cho nhân dân Việt Nam… Người cha vội dắt hai đứa con đi ra xa khỏi khu vực ấy, tôi đứng nhìn theo mà lòng tràn ngạp suy nghĩ…
Xin trích dẫn một số hình ảnh của các bé gái bị nhiễm chất độc màu da cam. Nếu được sống bình thường như bao đứa trẻ khoẻ mạnh khác, biết đâu trong số các em sau này sẽ đạt được những thành công nhất định trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống, kể cả con đường nghệ sỹ, diễn viên.Nhưng khi đã gắn liền với “căn bệnh” này, cảnh cửa tương lai của các em coi như đã bị khép mất một cánh.
Chị Phạm Thị Thương, sinh năm 1972 Chị Đào Thị Hoan, sinh năm 1977
Xã Bình Phú, tỉnh Bến Tre. tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Bé Lê Thị Hoàng Yến, sinh năm 1996, Bé Đoàn Thị Mỹ Dung, sinh năm
tại xã Trung Hiếu, huyện Vũng Liêm 1991, tại Thạch Trung, tỉnh Hà Tĩnh.
Tỉnh Vĩnh Long.
Gánh nặng đè lên vai những người phụ nữ trong chiến tranh, và rồi khi đất nước hoà bình, đôi vai họ không hề vơi nhẹ đi, mà giờ đây họ còn phải hứng chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh mang lại - một người chồng thương bệnh binh, những người con bị nhiếm chất độc màu da cam…
Bà Nguyễn Thị Huyền, ở xã Cam Nghĩa Em Kế Văn Bạc, sinh năm 1988, cùng
huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị cùng các mẹ ở xã A Ngô, huyễn A Lưới, tỉnh
người con bị nhiễm chất độc màu da Thừa Thiên Huế.
Cam
Có thế mới thấu được tấm lòng của người phụ nữ..!Họ hy sinh dường như tất cả cuộc đời mình vì hạnh phúc của người thân yêu mình!
Hậu quả của chiến tranh còn đó, hậu quả của chất độc da cam cũng còn nguyên hình! Dù cho đến nay thế giới cũng đã có nhiều hành động thiết thực để xoa dịu nỗi đau của nạn nhân chất độc màu da cam, nhưng chữa sao cho hết vết thương thể xác và vết thương tinh thần đã in hằn sâu trong con người của những nạn nhân này!
Có thể nhận thấy chất độc màu da cam đã trở thành một nỗi ám ảnh cho tất cả nhân loại. Cho đến ngày nay, dù chiến tranh đã qua đi trên đất nước ta, nhưng như mọi người đã thấy, chất độc màu da cam nào đã buông tha cho dân tộc ta… không ai phủ nhận được điều này, kể cả các em thơ đang được cắp sách đến trường, các em cũng đã dùng trái tim của mình tạo nên những bức tranh mà khi nhìn vào đó chúng ta mới giật mình không hiểu tại sao các em lại có một cảm nhận sâu sắc như vậy..! Đây là bức tranh “Chiến tranh, chất độc màu da cam - nỗi đau của sự sống” của em Đàm Thị Mai, 13 tuổi trường THCS Nguyễn Hồng Đào, quận Tân Bình. Ở đây, một lần nữa hình ảnh người phụ nữ đau thương lại xuất hiện như minh chứng cho những đau thương họ phải trải qua trong lịch sử đấu tranh dân tộc!