Dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm văn hiến có truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo. Học trước hết là để làm người và sau đó để góp sức mình vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ xa xưa, nhân dân ta có câu: “Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là biểu hiện của tinh thần ham học hỏi, cầu thị. Văn bia ở Văn Miếu ghi rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao; nguyên khí suy thì đất nước yếu, mà càng xuống thấp”. Từ Việt Nam đi ra thế giới, hòa nhập vào đại dương trí tuệ của thời đại, Hồ Chí Minh đã chắt lọc tinh hoa của nền giáo dục nhân loại, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và từng bước xây dựng nền giáo dục mới. Sự cống hiến của Người về lý luận và thực tiễn giáo dục là vô giá, đem lại thành tựu và niềm vinh quang cho giáo dục Việt Nam, góp phần đưa nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong công cuộc hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng một xã hội phát triển nhanh và bền vững. Nhiệm vụ cao cả của giáo dục là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, có phẩm chất đạo đức góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều “bất cập về khả năng đáp ứng của hệ thống giáo dục đại học đối với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và nhu cầu học tập của nhân dân”. Nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chưa cao, gây nhiều những vấn đề nhức nhối như: học giả bằng thật Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng và đạt hiệu quả cao trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực có trình độ là một đòi hỏi lớn đối với các trường đại học, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội X đã đề ra là: “Về Giáo dục và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [5,tr.34]. Một trong những giải pháp quan trọng là chúng ta cần nghiên cứu một cách sâu sắc hệ thống tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh và vận dụng có sáng tạo vào hoạt động giáo dục, nhất là vận dụng phương pháp giáo dục của Người vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Đây là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
84 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2311 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh với việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm văn hiến có truyền thống hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo. Học trước hết là để làm người và sau đó để góp sức mình vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ xa xưa, nhân dân ta có câu: “Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng” là biểu hiện của tinh thần ham học hỏi, cầu thị. Văn bia ở Văn Miếu ghi rằng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao; nguyên khí suy thì đất nước yếu, mà càng xuống thấp”. Từ Việt Nam đi ra thế giới, hòa nhập vào đại dương trí tuệ của thời đại, Hồ Chí Minh đã chắt lọc tinh hoa của nền giáo dục nhân loại, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và từng bước xây dựng nền giáo dục mới. Sự cống hiến của Người về lý luận và thực tiễn giáo dục là vô giá, đem lại thành tựu và niềm vinh quang cho giáo dục Việt Nam, góp phần đưa nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu trong công cuộc hội nhập quốc tế.
Đảng ta đã khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng một xã hội phát triển nhanh và bền vững. Nhiệm vụ cao cả của giáo dục là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, có phẩm chất đạo đức góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều “bất cập về khả năng đáp ứng của hệ thống giáo dục đại học đối với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và nhu cầu học tập của nhân dân”. Nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chưa cao, gây nhiều những vấn đề nhức nhối như: học giả bằng thật…Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng và đạt hiệu quả cao trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực có trình độ là một đòi hỏi lớn đối với các trường đại học, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội X đã đề ra là: “Về Giáo dục và đào tạo, chúng ta phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” [5,tr.34]. Một trong những giải pháp quan trọng là chúng ta cần nghiên cứu một cách sâu sắc hệ thống tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh và vận dụng có sáng tạo vào hoạt động giáo dục, nhất là vận dụng phương pháp giáo dục của Người vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Đây là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
Trước hết là những công trình sưu tập những bài nói, bài viết có tính chuyên đề giáo dục của Hồ Chí Minh như: Hồ Chí Minh - Nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang, Nxb. Giáo dục, H, 1969; Hồ Chí Minh - Bàn về giáo dục, Nxb. Sự thật, H, 1975; Hồ Chí Minh - Về giáo dục thanh niên, Nxb. Thanh niên, H, 1980…
Trước yêu cầu bức xúc trong giáo dục và đào tạo, nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và khai thác di sản tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Tiêu biểu có: Nguyễn Lân: Hồ Chủ tịch nhà giáo dục vĩ đại, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1990; Hà Thế Ngữ: Hồ Chí Minh với vấn đề dân chủ hóa nền giáo dục, Nxb. Giáo dục, H, 1990; Hà Huy Giáp: Làm công tác giáo dục dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa thông tin, H, 1998; Song Thành: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2005; … Ngoài ra phải kể đến nhiều bài viết trên các tạp chí như: Nguyễn Khánh Bật: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo, Tạp chí giáo dục, số 4 (tháng 5/2001); Bùi Đình Phong: tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục cách mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 11 (tháng 6/2004);…
Những công trình này đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau với nội dung khá đa dạng về tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nhìn tổng thể trong tất cả các công trình trên, chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu về phương pháp giáo dục một cách đầy đủ, các công trình mới chỉ bàn đến một số khía cạnh nhất định, mà đây lại là vấn đề rộng lớn có ý nghĩa tác động trực tiếp đến vấn đề giáo dục và yêu cầu xã hội đòi hỏi.
2.2. Các công trình nghiên cứu về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam
Các công trình đã được xuất bản như: Lương Gia Ban (chủ biên): Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung chương trình các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Phạm Văn Đồng: Giáo dục - quốc sách hàng đầu, tương lai của dân tộc, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999; Phạm Ngọc Liên: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hoá người học, Thông báo khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1994; Nguyễn Văn Sơn: Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002…Các công trình này đều nêu cụ thể, toàn diện tình hình và phương hướng đổi mới giảng dạy các môn lý luận chính trị các trường chuyên nghiệp nước ta. Tuy vậy, chưa có công trình nào quán triệt phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy đại học.
Do đó, nghiên cứu “phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh với việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay” vừa có ý nghĩa lý luận vừa thiết thực đối với công tác giáo dục đại học.
Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích
- Nghiên cứu phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Nhiệm vụ
- Luận văn tập trung phân tích những nội dung phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh.
- Làm rõ thực trạng giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học ở Hà Nội.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có nhiều vấn đề và nhiều nội dung. Trong khuôn khổ luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về phương pháp giáo dục trong tư tưởng của Người.
- Nghiên cứu thực trạng giáo dục các môn lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Dựa trên tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về giáo dục.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; các phương pháp cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống kê, so sánh…
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chương như sau:
- Chương I: Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh và yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học hiện nay.
- Chương II: Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị trong trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HỒ CHÍ MINH VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC HIỆN NAY
Giáo dục và yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học hiện nay
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, Giáo dục là: 1. Quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng sinh hoạt không thể thiếu được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Giáo dục là một bộ phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, một trong những nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt. Giáo dục mang tính lịch sử cụ thể, tính chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục biến đổi theo các giai đoạn phát triển của xã hội, theo các chế độ chính trị - kinh tế của xã hội; 2. Hệ thống các biện pháp, các tổ chức đào tạo và giáo dục của một nước.
Phương pháp dạy học (PPDH) là cách thức hợp tác của thầy và trò, trong đó thầy truyền đạt tri thức, kĩ năng, thái độ; thầy điều khiển việc học của trò, trò tiếp thu và tự điều khiển sự học tập của bản thân, học những điều được truyền thụ để phát triển nhân cách. PPDH bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học. Hai phương pháp này trong suốt quá trình dạy học luôn luôn quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Dạy và học là hoạt động mang tính sáng tạo, đa dạng và linh hoạt, nên không thể có PPDH vạn năng, cứng nhắc, đơn điệu... áp đặt. PPDH luôn luôn biến đổi và tuân theo quy luật về sự thống nhất của mục đích, nội dung, phương pháp và phù hợp đối tượng.
Giảng dạy là hoạt động của thầy, cô giáo truyền thụ kiến thức, lí thuyết và kĩ năng thực hành cho học sinh. Nội dung và phương pháp giảng dạy tuỳ thuộc vào mục đích giáo dục, trình độ phát triển kinh tế và văn hoá của xã hội, đặc điểm nhận thức và tâm lí lứa tuổi, khả năng và điều kiện thực tế của nhà trường. Nhà trường hiện đại, vừa truyền thụ kiến thức, vừa giúp hình thành những phẩm chất người công dân của xã hội mới, thông qua "dạy chữ" để "dạy người". Giảng dạy hiện đại phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh, giúp học sinh chủ động tìm và nắm kiến thức. Đó là hướng ứng dụng các phương pháp tích cực trong dạy học.
Người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong hệ thống giáo dục nói chung được gọi là nhà giáo. Những nhà giáo ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp gọi chung là giáo viên; riêng ở cấp giáo dục đại học được gọi là giảng viên.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là đổi mới nội dung, giáo trình, cách tiến hành các phương pháp dạy và phương pháp học, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp truyền thống và vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy - học tiên tiến nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu, nâng cao các kỹ năng cần thiết về nghề nghiệp, kỹ năng làm việc với người khác, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng trình bày, thuyết phục, kỹ năng tự phát triển.
Chất lượng dạy học đại học là một khái niệm khó có thể định nghĩa một cách tường minh. Có lẽ sẽ rất khó khăn trong việc đưa ra các tiêu chí để xác định chất lượng dạy học đại học bởi vì dưới nhiều góc độ khác nhau người ta có thể đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau (và đôi khi chúng mâu thuẫn nhau). Mặt khác, chất lượng trong giáo dục không phải là một đại lượng bất biến, mà nó mang tính chất lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào một hệ thống giáo dục nhất định và thay đổi theo chính sách giáo dục của từng giai đoạn cụ thể của đất nước. Nhưng có một điều dễ được chấp nhận hơn cả là thước đo của chất lượng dạy học đại học chính là chất lượng giáo dục đại học. Chất lượng giáo dục đại học là sự phù hợp với mục tiêu đề ra và mục tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu xây dựng, phát triển xã hội hiện tại và tương lai. Chất lượng giảng dạy đại học là một bộ phận quan trọng cấu thành chất lượng giáo dục đại học.
Như vậy, chất lượng giảng dạy đại học được đo một cách cơ bản ở các tiêu chí: Chất lượng đội ngũ giảng viên (chủ thể của giáo dục); Nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy; Chất lượng học tập của sinh viên; Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động giảng dạy; Quản lý hoạt động dạy - học trong trường đại học,…
1.1.2. Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học hiện nay
1.1.2.1. Yêu cầu khách quan
Giáo dục - đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, kế thừa và phát triển những giá trị thành tựu của nền văn minh nhân loại. Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, tri thức trở thành động lực chính của sự tăng tốc phát triển. Giáo dục - đào tạo được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và sự thành đạt của mỗi thành viên trong cuộc sống. Giáo dục đại học là tác nhân hiệu quả, chủ đạo và trực tiếp giúp Nhà nước hoạch định chính sách phát triển khoa học, kinh tế, xã hội. Chất lượng giáo dục đại học là tấm gương thần kỳ để nhìn vào đó hiểu tương lai dân tộc sẽ đi về đâu. Đất nước phát triển là dựa vào công lớn học tập, lao động sáng tạo của nguồn lao động trẻ. Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Vấn đề then chốt trong chính sách quốc gia là chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hiệu quả nguồn lực khoa học công nghệ.
Qua hai mươi năm đổi mới (1986 - 2006), giáo dục đại học nước ta đã phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức đào tạo. Toàn quốc hiện có 214 trường đại học và cao đẳng với quy mô sinh viên các hệ đang đào tạo năm 2004 là 1,131 triệu người (Thống kê Giáo dục Vụ Kế hoạch - Tổ chức tháng 3/2004). Lực lượng chuyên môn kỹ thuật hiện có trên 8 triệu người chiếm 18,3% trong tổng số trên 43,8 triệu lao động của cả nước. Giáo dục đỉnh cao, giáo dục chất lượng cao, chúng ta cũng đã có một số kết quả được thế giới ghi nhận như những cuộc thi quốc tế, hay là những dịp thanh niên Việt Nam thể hiện tài năng. Tuy nhiên, những thành tựu nói trên của giáo dục đại học Việt Nam là chưa vững chắc, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân. Thủ tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã dũng cảm nhìn nhận giáo dục và khoa học công nghệ của nước ta chưa theo kịp được với yêu cầu. Nhiều trí thức tâm huyết đã cảnh báo rằng, nếu tới đây giáo dục tiếp tục không thành công thì đó sẽ là điều bất hạnh lớn cho dân tộc, vì không ai lường hết được hậu quả của nó đối với mọi mặt đời sống của đất nước khi hội nhập. Chấn hưng giáo dục là mệnh lệnh của cuộc sống.
Sự đảm bảo nguồn nhân lực khoa học công nghệ có cơ cấu và chất lượng phù hợp với yêu cầu thị trường lao động và đủ khả năng tiếp cận với nền khoa học và công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong xu thế toàn cầu hoá, mối quan hệ kinh tế ngày càng gia tăng, nhiều công ty đa quốc gia ra đời, hình thành một nền kinh tế không biên giới, tạo áp lực hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Mối giao lưu văn hoá tăng rất nhanh, các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, internet đã cải biến xã hội một cách sâu sắc, “đưa thế giới vào mỗi gia đình”. Mối liên hệ hợp tác về đào tạo, nghiên cứu đã phá vỡ các phương thức giảng dạy truyền thống để thay thế bằng những phương pháp giáo dục - đào tạo kiểu mới theo tư duy năng động hơn và hiệu quả hơn gấp bội.
“Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006 -2020” là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Lý do vì: “giáo dục đại học là hệ thống máy cái của khoa học công nghệ và nền kinh tế quốc dân, là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia”; “sự tụt hậu của đại học nước ta so với thế giới là nghiêm trọng hơn nhiều so với giáo dục phổ thông” (Giáo sư Hoàng Tụy, 2006). “Khi có được cách giảng dạy và học mới thì có thể đào tạo cấp tốc nhân sự cho đại học kiểu mới theo một giáo trình mới”; “cần phải thay đổi ngay từ cách đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm vì nếu không làm được việc đó thì mọi sửa đổi ở các đại học chuyên môn khác đều không có tác dụng (Giáo sư Võ Tòng Xuân, 2006); Chưa bao giờ nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục đại học cần thiết và cấp bách như hiện nay (Thạc sỹ Nguyễn Thị Hoài Minh, 2006).
Theo thống kê năm 2000 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hàng năm có khoảng 25.000 sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Trong số này, chỉ có 50% sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp; và trong số tìm được việc, chỉ có 30% tìm được việc đúng ngành nghề. Hơn nữa đa số sinh viên sau khi ra trường ở lại Hà Nội để xin việc. Đây cũng là thực trạng đáng buồn, cần xem xét và đổi mới lại cả quá trình đào tạo đại học ở các trường hiện nay.
Yêu cầu chủ quan
Các môn lý luận chính trị đã góp phần xây dựng thế giới quan và phương pháp luận; bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; nâng cao tình cảm, ý chí và đạo đức cách mạng cho đối tượng đào tạo là sinh viên các trường đại học, thông qua việc trang bị, củng cố hệ thống những tri thức cơ bản và quy luật nhận thức, quy luật kinh tế, quy luật lịch sử xã hội, để cải tạo hiện thực. Nhưng trong thực tế hiện nay, vị trí các môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn có khoảng cách không nhỏ giữa lý thuyết và thực tế.
Thực tiễn thế giới và trong nước có nhiều thay đổi, nhưng các môn học này còn lạc hậu so với thực tiễn nên tính thuyết phục đối với người học chưa cao.
Đội ngũ người dạy đa phần chưa tương xứng với môn học cả về tri thức tổng hợp và phương pháp giảng dạy. Chính cung cách này để lại trong xã hội tâm lý coi thường các môn học này và không đối xử như một khoa học thực sự, kéo dài cho đến ngày nay. Do đó, để nâng cao chất lượng và phương pháp giảng dạy môn học lý luận chính trị cần có biện pháp khắc phục tình trạng trên.
Nhiệm vụ chủ yếu của các trường đại học ở Hà Nội là cần thực hiện mục tiêu là: đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ đại học và sau đại học; có đạo đức; có lương tâm nghề nghiệp; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong công nghiệp; có sức khoẻ, nhằm tạo điều kiện củng cố quốc phòng an ninh. Muốn làm tốt được nhiệm vụ này, trước hết các trường có sự đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và công nghệ đào tạo, thiết bị hỗ trợ giảng dạy…để thực hiện việc đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ quản lý khoa học có trình độ đại học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thủ đô, khu vực đồng bằng sông hồng và cung ứng nhân tài cho cả nước. Điều này không thể có con đường nào khác là phải vận dụng một cách triệt để những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và phương pháp giáo dục, lấy đó làm cơ sở nền tảng và áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể từng trường đại học ở Hà Nội và giáo dục nước ta.
1.2. Phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục
Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục là nền tảng của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Người luôn đặt giáo dục ở vị trí đầu tiên và quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục được xem là một trong những khâu quan trọng nhất của việc đào tạo nhân tài, phát triển nguồn nhân lực, góp phần trực tiếp vào tiến trình lịch sử của dân tộc và thời đại. Nhân tài được Hồ Chí Minh biệt chú ý, xem như vốn quý của dân tộc. Người tài thời nào cũng cần, nhưng muốn có số lượng lớn phải nhờ vào công tác giáo dục. Giáo dục là một nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nhân rộng, phát triển thêm ra những nhân tài cho đất nước. Đó cũng là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, trong một dân tộc, giáo dục không thể thiếu được. Đây là một trong những yếu tố tạo nên sự cường thịnh của chính dân tộc ấy. Theo Hồ Chí Minh, việc học dẫn con người đến với hiểu biết, đến với cái thiện, học sẽ mở mang trí tuệ của con người cũng như hiểu biết của cả dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng con người phát triển toàn diện, cải tạo con người và định hướng phát triển con người thành người có ích. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến công tác đào tạo con người mới thông qua giáo dục bằng cách thức tỉnh, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện rồi đưa họ ra đấu tranh giành độc lập, tự do. Chỉ có nền giáo dục cách mạng mới có thể giáo dục, bồi dưỡng và đào tạo những người có ý thức cách mạng. Lớp người này thấm nhuần chủ nghĩa