Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hóa đang diễn ra một cách hết sức mạnh mẽ.
Nó tạo ra cho Việt Nam những cơ hội cũng như những thách thức lớn chưa từng có trong
lịch sử. Việt Nam với phương châm: “Muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”,
do vậy xu thế liên minh, liên kết là một việc làm cần thiết và tất yếu. Việc Việt Nam liên
tục và nỗ lực không ngừng từng bước tham gia đàm phán để trở thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) là một bằng chứng minh họa xác thực cho điều này. Tự do hóa
thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề không chỉ đặt ra đối với Việt Nam mà với
tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt là quốc gia phát triển hay đang phát triển,
thể chế chính trị là tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo
hay màu da Tổng giám đốc WTO, Supachai Panitchpakdi, đã nhiều lần nói: “Thương mại
là công cụ tốt nhất để chống lại đói nghèo”. Thật vậy, từ khi đất nước ta tiến hành mở cửa
thị trường thì xuất nhập khẩu là một hoạt động quan trọng và có những đóng góp to lớn cho
sự tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, tự do hóa thương mại là một quá trình lâu dài gắn chặt với quá trình đàm
phán để cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Đối với các nước công nghiệp phát
triển, một mặt, họ luôn đi đầu trong đàm phán để mở cửa thị trường, mặt khác, họ lại luôn
đưa ra các biện pháp tinh vi hơn nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, nhằm đạt được các mục
tiêu xác định của họ.
Vậy bài toán đặt ra cho các nước đang phát triển là gì? Làm thế nào để vừa hội nhập
kinh tế, vừa đảm bảo cho ngành công nghiệp non trẻ trong nước không đứng trước bờ vực
của sự phá sản. Giải đáp sẽ nằm trong chính chiến lược và mục tiêu phát triển của mỗi quốc
gia. Hay nói cách khác là không có một lời giải cụ thể nào cho bài toán hóc búa này. Chính
mỗi quốc gia sẽ phải đi tìm cho mình một đáp án riêng dựa trên những điều kiện, lợi thế của
quốc gia mình và Việt Nam cũng đang trên con đường đi tìm lời giải riêng đó.
86 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8930 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Rào cản phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Rào cản phi thuế quan trong chính
sách thương mại quốc tế của Việt Nam
- Thực trạng và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hóa đang diễn ra một cách hết sức mạnh mẽ.
Nó tạo ra cho Việt Nam những cơ hội cũng như những thách thức lớn chưa từng có trong
lịch sử. Việt Nam với phương châm: “Muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”,
do vậy xu thế liên minh, liên kết là một việc làm cần thiết và tất yếu. Việc Việt Nam liên
tục và nỗ lực không ngừng từng bước tham gia đàm phán để trở thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) là một bằng chứng minh họa xác thực cho điều này. Tự do hóa
thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề không chỉ đặt ra đối với Việt Nam mà với
tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt là quốc gia phát triển hay đang phát triển,
thể chế chính trị là tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo
hay màu da… Tổng giám đốc WTO, Supachai Panitchpakdi, đã nhiều lần nói: “Thương mại
là công cụ tốt nhất để chống lại đói nghèo”. Thật vậy, từ khi đất nước ta tiến hành mở cửa
thị trường thì xuất nhập khẩu là một hoạt động quan trọng và có những đóng góp to lớn cho
sự tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, tự do hóa thương mại là một quá trình lâu dài gắn chặt với quá trình đàm
phán để cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Đối với các nước công nghiệp phát
triển, một mặt, họ luôn đi đầu trong đàm phán để mở cửa thị trường, mặt khác, họ lại luôn
đưa ra các biện pháp tinh vi hơn nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, nhằm đạt được các mục
tiêu xác định của họ.
Vậy bài toán đặt ra cho các nước đang phát triển là gì? Làm thế nào để vừa hội nhập
kinh tế, vừa đảm bảo cho ngành công nghiệp non trẻ trong nước không đứng trước bờ vực
của sự phá sản. Giải đáp sẽ nằm trong chính chiến lược và mục tiêu phát triển của mỗi quốc
gia. Hay nói cách khác là không có một lời giải cụ thể nào cho bài toán hóc búa này. Chính
mỗi quốc gia sẽ phải đi tìm cho mình một đáp án riêng dựa trên những điều kiện, lợi thế của
quốc gia mình và Việt Nam cũng đang trên con đường đi tìm lời giải riêng đó.
Là những sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, chúng em nhận thức được rất rõ
được tầm quan trọng của việc: Làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam vượt rào cản
trong chính sách thương mại quốc tế, đặc biệt là các rào cản phi thuế quan. Cho nên, sau
một thời gian tìm hiểu chúng em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Rào cản phi thuế quan
trong chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Thực trạng và giải pháp”.
Mục đích nghiên cứu đề tài này là khái quát những vấn đề lí luận về rào cản phi thuế
quan, thực trạng về rào cản phi thuế quan của một số nước, thực trạng rào cản phi thuế quan
ở Việt Nam và cuối cùng là một số kiến nghị, giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp Việt
Nam vượt rào cản phi thuế quan một cách có hiệu quả trong hoạt động thương mại quốc tế.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, đề tài nghiên cứu khoa học gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về rào cản phi thuế quan trong chính sách thương mại
quốc tế.
Chương II: Thực trạng rào cản phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế
của Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm sử dụng và vượt rào cản phi thuế quan một
cách có hiệu quả trong chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN TRONG CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
I. Khái niệm và phân loại rào cản phi thuế quan trong chính sách thương mại
quốc tế
1. Cơ sở lí luận của rào cản phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc đàm
phán để gia nhập WTO. Vậy câu hỏi đặt ra là: Tại sao Việt Nam lại nỗ lực nhiều đến vậy để
gia nhập WTO? Để tham gia được vào WTO, Việt Nam phải làm gì? Và lợi ích mà WTO
có thể mang lại cho Việt Nam là gì?
Câu trả lời nằm trong chính các rào cản trong thương mại quốc tế. Để xuất khẩu được
hàng hóa, tất cả các quốc gia đều phải vượt qua hàng rào do các nước nhập khẩu dựng lên
và để làm được điều này thật không đơn giản chút nào.
Rào cản trong thương mại quốc tế vô cùng đa dạng, phức tạp và được quy định bởi cả
hệ thống pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của từng quốc gia, được sử dụng không
giống nhau ở các nước và vùng lãnh thổ. Trong khuôn khổ của WTO, rào cản phi thuế quan
trong thương mại quốc tế được thể hiện ở: Hiệp định về các rào cản kĩ thuật đối với thương
mại, Hiệp định về kiểm dịch động thực vật, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối
kháng, Hiệp định nông nghiệp, Hiệp định về dệt may và các qui định quản lí thương mại
liên quan đến môi trường, lao động… Các nước hoặc các vùng lãnh thổ còn có qui định về
tiêu chuẩn kĩ thuật cho các mặt hàng cụ thể cũng như các qui định về thủ tục hải quan và
nhiều qui định quản lý khác.
Trong thương mại quốc tế, chính sách thương mại quốc tế được hiểu là hệ thống các
quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm
điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với các lợi thế quốc gia trong từng
thời kì nhằm đem lại lợi ích lớn nhất cho quốc gia từ thương mại quốc tế .
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ phát huy được nhiều thế mạnh
của mình: Lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, tận dụng được những lợi thế từ thị trường thế
giới. Nhưng mặt khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém và bất lợi của chính quốc gia đó.
Do vậy các quốc gia thường phải sử dụng một hệ thống các công cụ điều chỉnh hoạt động
thương mại quốc tế. Trong đó phải kể đến sử dụng hàng rào phi thuế quan - một công cụ
được coi là linh hoạt, tác động nhanh, mạnh. Hàng rào phi thuế quan không chỉ có ý nghĩa
trong việc bảo hộ thị trường nội địa, hướng dẫn người tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
mà nó còn là công cụ để phân biệt đối xử trong quan hệ đối ngoại.
Trong xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, hầu hết các nước cam kết dỡ bỏ
các rào cản trong thương mại quốc tế để thúc đẩy tự do hóa thương mại. Nhưng thực tế cho
thấy rằng rào cản trong thương mại quốc tế vẫn được dỡ bỏ rất chậm chạp, thậm chí còn
được tạo dựng mới một cách hết sức tinh vi. Đối với hàng rào thuế quan, đây là biện pháp
mà WTO cho phép sử dụng để bảo hộ thị trường trong nước, nhưng phải cam kết ràng buộc
với một mức thuế trần nhất định và có lịch trình cắt giảm. Sự tự do hóa biểu hiện thông qua
các chính sách về: Quy chế tối hậu quốc (MFN), chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP),
hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của khối liên kết kinh tế như: EU, AFTA,
NAFTA, APEC…
Đối với hàng rào phi thuế quan, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ phát
triển kinh tế không đồng đều, các nước đều duy trì các rào cản thương mại nhằm bảo hộ sản
xuất nội địa.
2. Khái niệm hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế
Ngày nay có nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan. Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) năm 1997 đã quan niệm: “Hàng rào phi thuế quan là biện pháp biên
giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc gia sử dụng, thường thường dựa
trên cơ sở lựa chọn nhằm hạn chế nhập khẩu”. Theo nghiên cứu của PECC năm 1995 mô
tả: “Các hàng rào phi thuế quan là mọi công cụ phi thuế quan có thể can thiệp vào thương
mại bằng cách này làm biến dạng sản xuất trong nước”. Còn các nhà kinh tế học Deardroff
và Stern thì cho rằng: “Xét về hàng loạt các hàng rào phi thuế quan chính thức hoặc không
chính thức có thể tồn tại, có thể không có một phương pháp phân tích duy nhất cho việc
giải quyết thoả đáng toàn bộ phạm vi hàng rào phi thuế quan”.
Trong thực tế có rất nhiều người đồng nghĩa các hàng rào phi thuế quan với các biện
pháp phi thuế quan. Tất cả các hàng rào phi thuế quan đều là các biện pháp phi thuế quan,
song không phải các biện pháp phi thuế quan đều là hàng rào phi thuế quan. Các biện pháp
phi thuế quan có thể bao gồm các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, chúng không phải là những
“rào cản” đối với thương mại. Thuật ngữ có vẻ trung lập hơn này được các chính phủ
thường dùng để mô tả những biện pháp được sử dụng để quản lý nhập khẩu với mục đích
hợp pháp như: Thủ tục đảm bảo thực vật, bảo vệ người tiêu dùng trong nước. Vì vậy khó có
thể quy cho chúng là những rào cản. Việc xác định những biện pháp phi thuế quan nào là
rào cản phi thuế quan khá khó khăn.
Bên cạnh các định nghĩa trên, chúng ta đề cập tới định nghĩa về các biện pháp phi
thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của WTO: “Biện pháp phi thuế quan là những
biện pháp ngoài thuế quan, liên quan hoặc ảnh hưởng đến sự luân chuyển hàng hóa giữa
các nước”. Còn: “Rào cản phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản
trở thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng”.
Mục đích của việc nghiên cứu và phân tích các biện pháp phi thuế quan là đưa ra
một nghiên cứu mô tả cơ bản của thể chế thương mại hiện hành. Đây là cơ sở quan trọng
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Khi Việt Nam gia nhập WTO, thì
chắc chắn việc sử dụng hàng rào phi thuế sẽ cần được bàn đến và cắt giảm tương đối nhiều.
Nhưng trên thực tế, chính những quốc gia đề xướng ra lại là những nước sử dụng nhiều,
mạnh và có vẻ có hiệu quả bảo hộ nhất những hàng rào phi thuế quan.
3. Phân loại hàng rào phi thuế quan
Rào cản phi thuế quan bao gồm nhiều loại khác nhau, có thể được áp dụng ở biên
giới hay nội địa, có thể là biện pháp hành chính hoặc biện pháp kĩ thuật, có những biện
pháp bắt buộc phải thực hiện và có những biện pháp tự nguyện. Chính vì vậy, việc phân
loại chi tiết theo một tiêu thức thống nhất là rất khó khăn, sau đây là một số rào cản phi thuế
quan chủ yếu:
- Các biện pháp cấm: Trong số các biện pháp cấm được sử dụng trong thực tiễn
thương mại quốc tế có các biện pháp như: Cấm vận toàn diện, cấm vận từng phần, cấm xuất
khẩu hoặc nhập khẩu với một số hàng hóa nào đó…
- Hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu: Đó là hạn ngạch về số lượng hoặc giá trị được
phép xuất khẩu, nhập khẩu trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm). Hạn ngạch này
có thể do nước nhập khẩu hoặc xuất khẩu tự áp đặt một cách đơn phương, nhưng cũng có
loại hạn ngạch được áp đặt trên cơ sở tự nguyện của bên thứ 2 (hạn ngạch xuất khẩu tự
nguyện).
- Cấp giấy phép xuất, nhập khẩu: Có 2 loại giấy phép là giấy phép về quyền hoạt
động kinh doanh xuất, nhập khẩu và giấy phép xuất, nhập khẩu đối với một số loại hàng
hóa, hoặc phương thức kinh doanh xuất, nhập khẩu nào đó. Chẳng hạn là giấy phép cho
phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mua, bán hàng hóa trên thị trường
nội địa, giấy phép kinh doanh tạm nhập, tái xuất… Ngoài ra, còn có hai hình thức cấp phép
là cấp phép tự động và không tự động. Sử dụng các biện pháp cấp phép không tự động cũng
dẫn tới các rào cản thương mại về thủ tục hành chính và chi phí tăng.
- Các thủ tục hải quan: Nếu các thủ tục hải quan đơn giản, nhanh chóng, đây chỉ là
biện pháp quản lý thông thường, nhưng nếu thủ tục quá chậm chạp, phức tạp có thể trở
thành rào cản phi thuế quan. Sử dụng các quy định về kiểm tra trước khi xếp hàng, quy định
về cửa khẩu thông quan, quy định về giá trị tính thuế hải quan… cũng sẽ trở thành rào cản
khi mà nó chưa hoặc không phù hợp với quy định về hài hòa thủ tục hải quan.
- Các rào cản kĩ thuật trong thương mại quốc tế: Đó là các quy định và các tiêu chuẩn
kĩ thuật, các quy định về phòng thí nghiệm và quy định về công nhận hợp chuẩn. Hiện có
rất nhiều các quy định và hệ thống tiêu chuẩn được áp dụng trên thế giới mà các nước cho
là phù hợp. Song lại có rất ít phòng thí nghiệm và tiêu chuẩn quốc tế mà các nước đều công
nhận hợp chuẩn. Do còn có sự khác biệt như vậy nên nó đã trở thành rào cản kĩ thuật trong
thương mại quốc tế. WTO đã phải thống nhất các nguyên tắc chung và được cam kết tại
hiệp định về hàng rào kĩ thuật trong thương mại nhưng cách thức mà các nước đang áp
dụng thường tạo sự phân biệt đối xử hay hạn chế vô lý đối với thương mại.
- Các biện pháp vệ sinh động, thực vật: Theo Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch
động thực vật của WTO thì các biện pháp vệ sinh động, thực vật bao gồm tất cả luật, nghị
định, quy định, yêu cầu và thủ tục, kể cả các tiêu chí sản phẩm cuối cùng; các quá trình và
phương pháp sản xuất, thử nghiệm, thanh tra, chứng nhận và làm thủ tục chấp thuận; xử lý
kiểm dịch gắn với việc vận chuyển động vật hay thực vật, hay gắn với các nguyên liệu cần
thiết cho sự tồn tại của chúng trong khi vận chuyển; thủ tục lấy mẫu và đánh giá nguy cơ…
Vì định nghĩa của WTO rất chung chung nên các nước công nghiệp phát triển thường đưa
ra các mức quá cao khiến cho hàng hóa của các nước đang phát triển khó thâm nhập. Đây là
một trong những rào cản phổ biến nhất hiện nay và mức độ của nó ngày càng tinh vi.
- Các quy định về thương mại dịch vụ: Như quy định về lập công ty, chi nhánh và văn
phòng của nước ngoài tại nước sở tại, quy định về xây dựng và phát triển hệ thống phân
phối hàng hóa, quy định về quyền được tiếp cận các dịch vụ công một cách bình đẳng, quy
định về thanh toán và kiểm soát ngoại tệ, quy định về quảng cáo và xúc tiến thương mại…
đều trở thành các rào cản trong thương mại quốc tế nếu các quy định này không minh bạch
và có sự phân biệt đối xử.
- Các quy định về đầu tư có liên quan đến thương mại: Như lĩnh vực không hoặc
chưa cho phép đầu tư nước ngoài, tỉ lệ góp vốn tối thiểu hoặc tối đa cho các lĩnh vực hoặc
sản phẩm xác định, tỉ lệ xuất khẩu tối thiểu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
quy định bắt buộc về phát triển vùng nguyên liệu… Các quy định trên nếu có sự phân biệt
đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều
được gọi là rào cản và hiện trở thành chủ đề của đàm phán dỡ bỏ rào cản nhằm tự do hóa
thương mại.
- Các quy định về sở hữu trí tuệ: Trước hết là các quy định về sở hữu hàng hóa. Nếu
các quy định về xuất xứ quá chặt chẽ so với hàng sản xuất trong nước để xem một hàng hóa
có phải hàng nội địa hay không và có sự phân biệt đối xử giữa các thành viên thì quy định
về xuất xứ đó vi phạm Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO và đương nhiên trở thành rào
cản trong thương mại quốc tế. Ngoài ra, các vấn đề về thương hiệu hàng hóa, kiểu dáng
công nghiệp, bí mật thương mại… cũng có thể trở thành rào cản trong thương mại quốc tế.
Ví dụ, trên thị trường thế giới đã có nhiều thương hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng của các công
ty hay tập đoàn xuyên quốc gia nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới tham gia vào thị
trưòng thế giới sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thâm nhập thị trường thế giới.
- Các quy định chuyên ngành về các điều kiện sản xuất, thử nghiệm, lưu thông và
phân phối hàng hóa được xác định trong hiệp định của WTO như: Hiệp định nông nghiệp,
Hiệp định về hàng dệt may. Hầu hết các nước trong WTO đều có quy định quốc gia cho
một số hàng hóa thuộc diện quản lí theo chuyên ngành, cách thức quản lí và biện pháp của
các nước cũng khác nhau, Đó cũng được xem xét là một trong các rào cản phi thế quan.
- Các quy định về bảo vệ môi trường: Gồm các quy định về môi trường bên ngoài lãnh
thổ biên giới theo Hiệp ước hoặc công ước quốc tế; các quy định trực tiếp về môi trường
trong lãnh thổ quốc gia và các quy định có liên quan trực tiếp đến môi trường nhưng thuộc
mục tiêu bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Các rào cản về văn hóa: Sự khác biệt về văn hóa và cách nhìn nhận, đánh giá về giá trị
đạo đức xã hội… cũng trở thành một trong các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau, với ngôn ngữ chữ viết khác nhau, để hiểu rõ và
đáp ứng yêu cầu này phải tiêu tốn nhiều thời gian, thể thức và phải trả giá không rẻ thì mới có
thể vượt qua.
- Các rào cản địa phương: Ở một số nước, luật lệ của chính phủ trung ương cũng có
sự khác biệt so với các quy định mang tính địa phương. Ví dụ như quy định về xuất nhập
khẩu tiểu ngạch, quy định về phân luồng đường cho các phương tiện vận chuyển hành hóa,
quy định về khoản phí và phụ phí… Đây là những rào cản địa phương mà thực tế đã gặp
phải.
II. Tổng quan về sự hình thành và sử dụng rào cản phi thuế quan trong chính
sách thương mại quốc tế
1. Vị trí vai trò của rào cản phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế
Rào cản trong thương mại quốc tế là công cụ bảo hộ phổ biến được chính phủ các
nước sử dụng để nâng đỡ các doanh nghiệp nội địa gặp khó khăn. Đặc biệt là các doanh
nghiệp ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân hoặc các doanh nghiệp tập trung nguồn nhân
lực và tài chính lớn. Thực tế rõ ràng nhất có thể nhận thấy ở các nước đang phát triển như ở
các nước châu Mĩ Latinh, các nước Đông Nam Á, nơi có số lượng lớn các doanh nghiệp
nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia này đều là các doanh nghiệp
gặp khó khăn trong vấn đề cạnh tranh trên thị trường nội địa cũng như quốc tế mà nguyên
nhân sâu xa có thể là thiếu vốn, hạn chế trong vấn đề đào tạo nhân lực, thậm chí là yếu kém
trong khâu quản lí… Mặc dù vậy việc giải thể các doanh nghiệp này là vấn đề rất nan giải
bởi hầu hết các doanh nghiệp này thu hút một lượng lao động lớn hoặc được đầu tư bằng
những nguồn tài chính không nhỏ. Hậu quả của việc giải thể có thể là những cú sốc lớn về
kinh tế và chính trị. Hơn nữa, chính phủ vẫn còn đặt niềm tin vào khả năng biến chuyển
tình thế của đội ngũ lãnh đạo. Hoặc đây là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh
vực được ưu tiên phát triển theo chiến lược lâu dài. Xuất phát từ nguyên nhân này, bảo hộ
còn giúp các quốc gia trên thế giới duy trì việc làm cho những nhóm, tổ chức nhất định và
giảm bớt những sức ép về chính trị của các tổ chức đoàn thể.
Một lí do không thể không đề cập đến khi duy trì các biện pháp bảo hộ là mong
muốn cải thiện các ngành sản xuất nội địa. Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có
những chiến lược phát triển kinh tế nhất định, trong đó luôn xây dựng lĩnh vực ưu tiên đặc
biệt. Nhưng để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đạt hiệu quả tối ưu và nâng
cao khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế, Nhà nước cần có những ưu đãi đặc biệt.
Đối với các quốc gia có cả tiềm lực về kinh tế và chính trị, các biện pháp bảo hộ còn
có thể được duy trì như một công cụ chính trị để đơn phương gây sức ép với các quốc gia
khác. Hoa Kì là một nước tiêu biểu khi dùng những biện pháp bảo hộ vào mục đích này.
Trong pháp luật Hoa Kì có những điều khoản đặc biệt cho phép quốc hội đưa ra các quyết
định thương mại đơn phương đối với bất cứ quốc gia nào được coi là đe dọa đến vấn đề an
ninh của Hoa Kì.
Rào cản thương mại quốc tế bao gồm nhiều loại khác nhau và mỗi loại rào cản lại có
vai trò và vị trí nhất định. Chẳng hạn để bảo hộ sản xuất trong nước người ta có thể sử dụng
các biện pháp thuế quan vì thuế quan có những ưu điểm là rõ ràng, minh bạch, dễ dự đoán
và tạo nguồn thu cho chính phủ. Tuy nhiên, thuế quan lại có nhược điểm là không tạo được
sự bảo hộ nhanh chóng khi kim ngạch nhập khẩu của một mặt hàng nào đó tăng nhanh gây
tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nuớc. Lúc này các biện pháp phi
thuế quan như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động có khả năng
hạn chế nhập khẩu một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, biện pháp phi thuế quan cũng có các
nhược điểm như: Dễ làm sai lệch các tín hiệu thị trường dẫn tới phân bổ nguồn lực không
đúng, các biện pháp phi thuế quan khó lượng hóa và khó dự đoán, không mang lại nguồn
thu cho chính phủ lại còn kèm theo các khoản phi phát sinh, dễ gây ra các tiêu cực.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng: Rào cản thương mại quốc tế không được định danh
một cách chính thức và rõ ràng trong hệ thống các điều ước hay luật pháp quốc tế nhưng lại
được nhà nước hoặc chính phủ vận dụng các quy định trong nhiều Hiệp định và Công ước